A Duna sajnos áradt. Pelikán józsef néhány önkéntes
falusival homokzsákokkal magasítja a gátat, mikor
váratlanul megérkezik Virág elvtárs, és beülteti maga
mellé a fekete kocsiba. |
Khổ nỗi nước sông Đu-na ngày càng cao. Pelikan đang
cùng vài người tình nguyện trong thôn xếp các bao tải cát
để đắp đê cao lên thì bỗng nhiên đồng chí Virag đến và
gọi hắn lên ngồi cạnh mình trong chiếc xe hòm đen. |
- Hová megyünk? - kérdi tőle szorongva. |
- Đi đâu vậy, đồng chí? – Pelikan lo lắng hỏi. |
- Mára lesz kész a vallomása. Bevallom, egy kicsit én is
izgulok. - Cinkosan megtoldja: - Megkérhetem valamire?
Legyen tapintatos. Ha valami nem tetszik, mondja meg
nekem. Tussinger elvtárs nagyon érzékeny... afféle
művészlélek... Szóval, érti? |
- Hôm nay, theo dự tính lời tự thú của đồng chí sẽ xong.
Thú thực là tôi cũng hồi hộp chứ chẳng phải không. -
Đồng chí tin cẩn quay sang hắn: - Tôi có thể yêu cầu
đồng chí ý tứ một chút được không? Nếu có điểm nào
không vừa ý thì nói cho tôi biết thôi. Đồng chí Tussinger
(Tu-sin-ge) là dễ tự ái lắm… chả là tâm hồn nghệ sĩ
mà…Đồng chí hiểu ý tôi chứ? |
A gátőr nem érti, de bólint. |
Gã canh đê không hiểu, nhưng gật đầu. |
Az író elvtárs alkotóháza fent van a hegyekben. A
teraszon, amelyet hatalmas zöld lucfenyők vesznek
körül, egy faragott íróasztalnál ül Tussinger, és veri az
írógépet. Fekete, szőrös férfi, atlétatrikóban, többnapos
szakállal. |
Nơi sáng tác của đồng chí nhà văn là ngôi nhà mãi tít tận
trên núi. Trên sân hiên được trồng thông xung quanh
đồng chí Tussinger đang ngồi đánh máy như điên cạnh
một chiếc bàn chạm trổ. Đó là một người tóc đen lông lá,
mặc áo may ô, râu mấy ngày chưa cạo. |
- Itt vagyunk, Tussinger elvtárs! - köszön rá Virág. -
Mára ígérted! |
- Chào đồng chí Tussinger, chúng tôi đến rồi đây. - Đồng
chí Virag cất tiếng chào. - Cậu hứa là hôm nay sẽ xong
đấy nhé! |
Tussinger szív egyet a cigarettáján, de nem néz fel az
írógépről. |
- Người kia rít một hơi thuốc lá, nhưng vẫn không ngẩng
lên. |
- Nem vagyok gép - morogja. – Üljetek le. |
- Tôi không phải là cái máy. - Hắn cằn nhằn. – Các cậu
ngồi xuống đi. |
Virág és Pelikán leülnek a hófehér szecessziós kerti
székekre, és hallgatják a féktelen madárcsicsergést, amit
még az írógép zakatolása sem tud elnyomni. |
Đồng chí Virag và Pelikan ngồi xuống ghế ngoài trời
kiểu tân cổ sơn trắng tinh lắng nghe tiếng chim hót líu lo
vang rộn át cả tiếng loạch xoạch của cái máy chữ. |
- Én nem sürgetlek -jegyzi meg halkan Virág -, te
mondtad ezt a dátumot. |
- Tớ không giục cậu - đồng chí Virag nói khẽ - Chính cậu
nói là ngày hôm nay sẽ xong. |
- Akkor is - duzzog Tussinger - ez nem cipőgyártás. -
Ujjai sebesen ugrálnak a betűkön, végül leüti az utolsó
pontot, kirántja a papírt a gépből. |
- Nói thì nói, nhưng đâu có dễ - Người kia làu bàu: - Đây
không phải là xưởng sản xuất giày.- Mấy ngón tay hắn
múa tít trên phím chữ, cuối cùng hắn mổ dấu chấm hết
rồi giật bản thảo ra khỏi máy chữ. |
- Készen vagyok - mondja megkönnyebbülve. |
- Xong rồi đây – gã văn sĩ thở phào nhẹ nhõm. |
Összerakja a gépelt papírlapokat, rendbe rak két
példányt, odaadja. |
Hắn ta sắp xếp lại các tờ giấy đã đánh máy, chia làm hai
bản rồi đưa cho khách. |
- Tessék, lehet olvasni! - Tölt magának egy pohár italt,
mohón felhajtja. - Tudod, Virág elvtárs, hogy milyen
szigorú vagyok magamhoz. De úgy érzem: ilyen jót még
nem írtam életemben. |
- Đây, cậu đọc đi! - Hắn tự rót rượu cho mình rồi làm
một tợp hết sạch. - Cậu biết là tớ luôn tự nghiêm khắc
với bản thân tới mức nào. Nhưng tớ phải thú thực là
trong đời chưa bao giờ viết hay như thế này. |
Megnézi, végigméri a másik jövevényt. |
Hắn đưa mắt nhìn từ đầu đến chân người khách thứ hai. |
- Maga az a Pelikán? |
- Anh là Pelikan đấy à? |
- Én vagyok. |
- Dạ vâng. |
- Irigylem magát. Na, olvassa. |
- Tôi thực sự ghen với anh. Nào, anh đọc đi. |
Azok ketten olvasni kezdik a vallomást. Tussinger újra
tölt az aranybarna konyakból, fel-alá sétál, figyeli az
arcukat. Nem bírja ki, hogy meg ne kérdezze: |
Thế là cả Pelikan lẫn đồng chí Virag cắm đầu đọc bản tự
khai. Tussinger lại tự rót cho mình một cốc cô-nhắc nâu
vàng nữa rồi đi đi lại lại theo dõi thái độ của các độc giả.
Cuối cùng không nhịn được nữa, hắn hỏi: |
- Hol tartasz? |
- Nào, đọc đến đâu rồi? |
- A békaembereknél... - néz fel Virág. |
- Đến đoạn bọn người nhái… - đồng chí Virag nhìn lên. |
- Eddig hogy tetszik? |
- Cho đến đây cậu thấy thế nào? |
- Eddig jó. - Elismerően bólint: - Semmi sablon. |
- Rất khá. - đồng chí Virag gật gù thừa nhận: - Không
khuôn mẫu tí nào. |
- Ötször átírtam - törli ki a hónaljából a verítéket
zsebkendővel Tussinger. - Utálom az elhasznált
patronokat. No, olvassák csak nyugodtan. |
- Tớ phải viết lại năm lần đấy - Hắn lấy khăn mùi xoa lau
mồ hôi nách. - Tớ ghét nhất là dập khuôn sáo rỗng. Nào,
các cậu cứ đọc tự nhiên. |
Virág elolvasta, elgondolkodva teszi le az iratcsomót. |
Đồng chí Virag đọc xong rồi trầm ngâm đặt bản thảo
xuống. |
- Nos? - kérdi Tussinger izgatottan. |
- Thế nào? – Tussinger hồi hộp hỏi. |
- Nagyon szép. - Virág elismerően lehunyja a szemét. |
- Rất hay. - Đồng chí Virag từ từ nhắm mắt khen bạn. |
Pelikán sokkal lassabban olvas, egyre kevésbé érti az
egészet, még a szemüvegét is felteszi. |
Pelikan đọc chậm hơn nhiều, vì hắn ngày càng thấy khó
hiểu lời tự khai của mình đến nỗi phải đeo kính cho rõ. |
- És ezt mind nekem kell elmondani? - szólal meg végre
vérvörösen. |
- Tất cả đây là lời tôi phải nói à? - Cuối cùng hắn hỏi mặt
đỏ gay. |
- Maga a koronatanú, nem? - néz rá Tus-inger sértődött
kihívással. - De csak mondja meg, ha valami nem tetszik.
Én bírom a kritikát. No, kezdje, jó ember! |
- Anh là nhân chứng chính chứ còn ai nữa? – Tussinger
nhìn hắn với chút tự ái. – Nhưng nếu có điểm nào đó
chưa bằng lòng thì anh cứ nói thẳng. Phê bình đối với tôi
là chuyện thường. Nào, có muốn thì nói đi! |
Hol is kezdje? Tétován vág neki. |
Pelikan phân vân không biết phải bắt đầu từ đâu. |
- Kérem szépen, én igazán nem értek hozzá,
ideológiailag is teljesen kezdő vagyok, de az mégis csak
marhaság, hogy Dániel elvtárs fémdobozokat dobált be a
Dunába, és azokban voltak a kémjelentések. |
- Thưa đồng chí, tôi thật ra không phải chuyên viên
khoản này, mà về mặt tư tưởng thì tôi mới chỉ vỡ lòng,
nhưng viết là đồng chí Daniel ném hộp sắt chứa các báo
cáo gián điệp xuống sông thì rõ ràng là chuyện bịa đặt
nực cười. |
- Miért, maga szerint miket dobott be a Dunába? - kérdi
Tussinger sértett gúnnyal. - Húsvéti tojásokat? |
- Anh đừng có ăn nói linh tinh. Theo anh thì Daniel vứt
gì xuống sông? – Tussinger hỏi với giọng hằn học mỉa
mai. - Bánh vẽ chắc? |
- Ürgéket - mondja Pelikán lelkes meggyőződéssel. - Ezt
onnan tudom, hogy előzőleg levágtam a farkukat. El is
adták a gyerekek a MÉH-nek, farkanként két forintért. |
- Đồng chí ấy ném chuột đồng. – Pelikan hăng hái tin
tưởng vào sự thật. – Tôi biết rõ vì trước đó chính tự tay
tôi cắt đuôi chúng để bọn trẻ mang ra phòng thu mua lĩnh
tiền thưởng năm xu một chiếc. |
- Fuj! - undorodik az egésztől Tussinger. - Kit érdekel
ez? Tiszta naturalizmus. Aztán?! |
- Tởm! – lão Tussinger nhăn mặt – Có ai quan tâm gì đến
cái này. Hoàn toàn là chủ nghĩa tự nhiên thuần tuý. Còn
gì nữa?! |
Most már megy a kritika: |
Bây giờ mới đích thực là phê bình: |
- Aztán az se stimmel, hogy Dániel elvtárs beugrott a
Dunába, és a víz alatt beszélte meg a békaemberekkel a
mi bölcs nagy vezérünk és a többi elvtárs
meggyilkolását. Dániel elvtárs egy harcsa után futott, úgy
esett be a vízbe. |
- Rồi thì chuyện đồng chí Virag nhảy xuống đáy sông
Đu-na để bàn với người nhái âm mưu ám sát lãnh tụ vĩ
đại anh minh của chúng ta và các đồng chí lãnh đạo khác
thì thực là vớ vẩn. Thực ra là đồng chí ấy giằng co với
con cá nheo to rồi bị ngã xuống nước. |
- Látta maga azt a harcsát? - csap le rá Tussinger. |
- Anh có nhìn thấy tận mắt con cá nheo đấy không? –
Tussinger không bỏ lỡ cơ hội. |
Váratlan a kérdés, szeppent a válasz: |
Câu hỏi thật bất ngờ nên câu trả lời hơi do dự: |
- Nem láttam. |
- Không, tôi không thấy. |
- Na látja, akkor mit kritizál?! - Tussinger sértődötten
kezd fel és alá járkálni, látszik, hogy nagyon emészti
magát. - Az ürgéken lehet vitatkozni, de a békaembereket
nem hagyom. Mi a véleményed, Virág elvtárs? |
- Thế thì anh còn giở giọng phê bình cái gì?! – Tussinger
mặt đỏ gay đi đi lại lại rõ ràng là đang kìm cơn tự ái đang
bùng lên. – Tranh luận về chuột đồng thì còn có thể
được, nhưng đừng có động vào đám người nhái của tôi.
Theo cậu thì thế nào, đồng chí Virag? |
Virág megsimítja a bajuszát, és feláll. Érzi, hogy neki
kell a feszültséget megszüntetnie. Karon fogja
Tussingert, vele együtt folytatja a sétát, nyugtatgatja. |
Đồng chí Virag miết râu mép rồi đứng dậy. Ông linh cảm
thấy trách nhiệm của mình là phải hoà giải căng thẳng
lúc này. Đồng chí quàng tay Tussinger kéo đi dạo rồi vỗ
về. |
- Szerintem jók a békaemberek. A fémdobozokat esetleg
át lehet írni. |
- Theo tớ thì đám người nhái được. Hộp sắt thì có thể nên
viết lại. |
Tussinger megmerevedik, mélységesen meg van sértve. |
Tussinger sững người lại vì lòng tự trọng bị tổn thương
nặng. |
- Átírni? Jó, én átírom, de akkor ti mondjátok meg, hogy
hogyan. |
- Viết lại là thế nào? Thôi được, tôi sẽ viết lại nhưng xin
các anh đọc cho tôi viết. |
És várakozva néz. |
Thế rồi hắn nhìn đồng chí Virag chờ đợi phản ứng. |
Virág lehunyja a szemét, ismét belekarol Tusaingerbe. |
Đồng chí Virag lại nhắm mắt rồi lại quàng tay Tussinger. |
- Lehet, hogy hülyeséget mondok - kockáztatja meg -, de
mit szólnál ahhoz, ha például maradna a doboz, de
ürgebőrbe varrva? Így talán még hitelesebb volna. |
- Có thể là tớ nói dớ dẩn - đồng chí thử lời – nhưng giả
dụ là ta vẫn giữ hộp sắt, nhưng khâu vào da chuột đồng
thì cậu thấy thế nào? Như thế có khi sát thực hơn. |
Tussinger elgondolkodik, elismerően bólint. |
Tussinger nghẫm nghĩ rồi gật đầu thừa nhận. |
- Nem rossz. Egész jó írói vénád van, Virág elvtárs.
Miért nem írsz? |
- Cũng không phải là tồi. Xem ra cậu cũng có khiếu văn
ra phết. Tại sao cậu không thử viết nhỉ? |
Virág szerényen lehunyja a szemét. |
Đồng chí Virag khiêm tốn nhắm mắt. |
- Nincs időm. És vannak, akik ezt jobbam értik. |
- Tớ không có thời gian, mà còn có những người còn viết
giỏi hơn. |
- Jó. Az ürgéket átírom. - Pelikánhoz fordul. - Na? Van
még valami kifogása? |
- Thôi được. Tớ sẽ viết lại đoạn chuột đồng. - Tussinger quay về phía Pelikan sẵng giọng. – Nào còn gì nữa thì
nói nốt đi. |
- Ha meg nem sértem az elvtársat... Az a titkos rádiózás a
vendégszobában... - Széttárja a karját. - Lehet, hogy én
rosszul emlékszem, de Dániel elvtárs csuromvíz volt,
hangosan vacogott, és én befektettem a dunyha alá... |
- Nếu như tôi không làm đồng chí phật ý…Cái chuyện
đánh điện đài bí mật trong buồng khách nhà tôi… -
Pelikan giang tay. – Có thể là tôi nhớ không rõ, nhưng
đồng chí Daniel bị ướt như chuột lột, run cầm cập nên tôi
phải để vào giường nằm đắp chăn… |
- Miért? Dunyha alatt nem lehet rádiózni? |
- Thế thì sao nào? Chẳng nhẽ không đánh điện đài được
ở trong chăn à? |
- De nekem egész másról van tudomásom - jegyzi meg
szerényen Pelikán. - A dunyha alatt tudniillik ott volt a
kislányom, Gizi is. És szó sem volt rádiózásról. |
- Nhưng theo tôi biết thì lại là chuyện hoàn toàn khác xảy
ra. – Pelikan nhỏ nhẹ. - Ở trong chăn còn có cả con Gizi
nhà tôi nữa. Hoàn toàn không dính dáng gì đến điện đài
cả. |
Tussinger megvetéssel szól közbe: |
Tussinger khinh bỉ ngắt lời hắn. |
- Fuj. Ilyen disznóságokat akar elmondani? Tiszta
pornográfia. |
- Rõ tởm! Anh định đem chuyện bẩn thỉu ấy ra mà kể à?
Thật là văn hoá đồi truỵ quá thể. |
- Az lehet, kérem - kap ezen Pelikán. -Én azt mondtam
Gizinek, hogy vigyen be neki forró teát, az én drága
lányom pedig nem állt meg a teánál. |
- Có thể là đồi truỵ thật, thưa đồng chí – Pelikan tiếp
tục. – Tôi bảo con cháu mang nước chè nóng vào cho
khách, nhưng khổ nỗi chè nóng nó cho là chưa đủ. |
- Szép kis apa maga! Van még valami kifogása? |
- Thật cha nào con ấy! Còn thắc mắc gì nữa không nào? |
Még mielőtt Pelikán felelhetne, közeledő
autószirénahang veri fel a kies erdő csendjét. Virág és
Tussinger jelentőségteljesen egymásra néznek. Az író az
ingéért nyúl, villámgyorsan fölkapja, begombolja,
nyakkendőt köt, felveszi a zakóját. Mindketten vigyázzba
merevednek. |
Trước khi Pelikan kịp trả lời thì bỗng có tiếng còi hú dài
phá tan không khí yên ắng trong rừng. Đồng chí Virag và
lão nhà văn nhìn nhau đầy ngụ ý. Tussinger mặc vội áo
sơ mi, thắt cà vạt rồi choàng áo ngoài chỉnh tề. Cả hai
đứng nghiêm chờ đợi. |
Kisvártatva Bástya elvtárs vonul be a teraszra két
hadsegéde kíséretében. |
Một lát sau đồng chí Bastya bước vào sân hiên, đằng sau
là hai sĩ quan trợ lý. |
- Erőt, egészséget, Bástya elvtárs! |
- Chúc đồng chí khoẻ! - cả hai hô. |
- Pihenj! - int Bástya elvtárs. Tussingerhez fordul. - Kész
van? |
- Nghỉ! - đồng chí Bastya đưa tay ra lệnh rồi quay sang
lão nhà văn. – Xong chưa? |
- Kész vagyok, Bástya elvtárs. |
- Báo cáo đồng chí, xong rồi ạ. |
- Ide vele! |
- Đưa tôi xem! |
Tussinger átnyújtja a kéziratköteget. A tábornok felteszi
a szemüvegét, olvasni kezd. Egyszerre sötétre komorul
szép buldogarca. |
Tussinger trịnh trọng đưa tập bản thảo. Vị tướng đeo
kính lên mắt rồi đọc. Tự nhiên bộ mặt hơi phù của đồng
chí tối sầm. |
- Mi az?! Hát Bástya elvtársat már meg se akarják
gyilkolni?! - Villámló szemekkel néz Tussingerre. - Én
már szart érek?! |
- Cái gì thế này?! Không đứa nào muốn ám sát đồng chí
Bastya à?! - Cặp mắt đồng chí toé lửa nhìn lão nhà văn. –
Tôi chả là cái cứt gì nữa à?! |
Az író falfehéren mentegetőzik. |
Tussinger mặt trắng bệch phân trần. |
- Gondoltam ... az előző perben is... nem akartam magam
ismételni... De önkritikát gyakorolok. Bástya elvtársat a második helyen akarták meggyilkolni. Jó lesz így? |
- Dạ tôi cũng có nghĩ… cả trong vụ án trước cũng có ạ…
giờ tôi không định lặp lại… Nhưng tôi xin tự phê. Đồng chí Bastya sẽ đứng thứ hai trong danh sách những người
chúng định ám sát. Có được không ạ? |
- Jó - enyhü1 meg a buldogarcú tábornok. - Különben
tetszik. |
- Được - vị tướng đã bớt giận. – Nhìn chung thì lời khai
rất khá. |
- Nekem is tetszik - buzgólkodik Virág. - Sok álmatlan
éjszakánk fekszik benne. Kerültük a sablonokat. |
- Báo cáo, tôi cũng thấy như vậy ạ - đồng chí Virag hăng
hái. – Đây là kết quả của bao đêm mất ngủ của chúng tôi
đấy ạ. Chúng tôi cố gắng tránh các khuôn mẫu cứng
nhắc. |
- Szerénység - inti le Bástya elvtárs. - Ne tömj énezze
magát. |
- Hãy khiêm tốn - đồng chí Bastya khuyên dụ. – Anh
đừng quá tự khen mình. |
- Igenis - merevedik vigyázzba Virág. - Nem fogom
magam tömjénezni. |
- Báo cáo, rõ! - đồng chí Virag đứng nghiêm phắt. – Tôi
sẽ không tự khen mình quá nữa ạ. |
- Szerénység... - mereng el Bástya elvtárs. - Ha én
szeretek valamit magamban: az a szerénység. |
- Khiêm tốn… - đồng chí Bastya trầm nghâm suy nghĩ. -
Đức tính của bản thân mà tôi ưa nhất chính là sự khiêm
tốn. |
Meghatva állnak valamennyien. Most Bástya elvtárs
felemeli a fejét, megakad a szeme Pelikánon. |
Tất cả đứng im bồi hồi. Đồng chí Bastya ngẩng đầu lên
và chợt nhìn thấy Pelikan. |
- Ez a dagadt kicsoda? |
- Tay bệu này là ai vậy? |
- Pelikán - mondja Virág. - Ő lesz a koronatanú. |
- Đây là Pelikan - đồng chí Virag trả lời. – anh ta sẽ là
nhân chứng chính. |
A kiszemelt viszont úgy érzi, elérkezett a pillanat,
amikor fordíthat a helyzeten. |
Người được chọn lựa giờ cảm thấy thời cơ thoát hiểm
của hắn đã đến. |
- Bástya elvtárs, kérem... - kezdi el bizonytalanul. - Én
őszintén megvallom... én ideológiailag... én csak egy
egyszerű gátőr vagyok... |
- Thưa đồng chí Bastya… - hắn ngập ngừng – Tôi thành
thật với đồng chí là… về mặt chính trị tư tưởng… tôi chỉ
là một người canh đê bình thường... |
- Magát már láttam valahol... - fürkészi az arcát a
tábornok. |
- Hình như tôi đã nhìn thấy anh ở đâu rồi… - vị tướng
nhìn chằm chằm vào mặt hắn. |
- Hogyne... - mondja Pelikán szelíden. -Először az
uszodában, aztán le tetszett csukatni, aztán a Vidám
Parkban, ezután is le tetszett csukatni, utána a
Narancsligetben, ezután ki tetszett tüntetni. De nekem
van valami rossz érzésem... Én tanú sem akartam lenni. |
- Đúng thế ạ… - Pelikan khiêm tốn trả lời. - Đầu tiên là ở
bể bơi, sau đó đồng chí cho vào tù ạ, sau đó là ở Công
viên Vui, và đồng chí lại cho vào tù ạ, rồi sau đó là ở
Viện cam, ở đó đồng chí cho đứng lên nhận huân chương
ạ. Nhưng tôi thấy có gì không ổn… Tôi thật tình không
muốn làm chứng. |
- Nem akart? - döbben meg Bástya elvtárs. - Hát akkor
hogy kerül ide? |
- Không muốn à?! - đồng chí Bastya sửng sốt. - Thế tại
sao anh lại ở đây? |
- Magam sem tudom. Nekem most kint kellene lennem a
gáton. Mint gátőrnek. |
- Ngay cả tôi cũng không biết ạ. Giờ này đáng nhẽ tôi
phải có mặt trên đê cơ ạ. |
Bástya buldogarca egészen elsötétül. |
Đồng chí Bastya tối sầm mặt. |
- Virág! Ez így nincs jói. Nekünk önkéntes tanúk
kellenek. Érti? - Megsemmisítő a tekintete. |
- Anh Virag! Thế này thì không được. Chúng ta cần
những nhân chứng hoàn toàn tự nguyện. Anh hiểu chưa?
- Cặp mắt ông ta tưởng như thiêu cháy kẻ đứng trước
mặt. |
Tussiriger kétségbe van esve, Virág teljesen összeomlott. |
Tussinger hoảng loạn cuống cuồng còn đồng chí Virag
thì sụp đổ hoàn toàn. |
Az író majdnem sírva mutat a kéziratkötegre: - Most
dobjam el az egészet? |
Gã nhà văn tay chỉ vào bản thảo nói gần như khóc: - Giờ
vứt hết cả đi sao? |
Bástya elvtárs hajthatatlan. |
Đồng chí Bastya sắt đá. |
- Nem érdekel. Tanú-ügyben nem tréfálok. Végeztem! |
- Tôi không cần biết. Trong chuyện nhân chứng tôi
không đùa. Hết! |
És két hadsegéde kíséretében elvonul. |
Dứt lời đồng chí cùng hai sĩ quan trợ lý đi thẳng. |
Szörnyű letörtség lesz úrrá az ottmaradottakon. Virág
percek alatt éveket öregedett. Tussinger a kéziratát
lapozgatja: |
Cả ba người còn lại đều rã rời. Đồng chí Virag tưởng
chừng già đi mấy tuổi còn gã nhà văn thờ thẫn lật mấy
trang bản thảo: |
- Most dobjam el az egészet? |
- Chả nhẽ vứt cả đi sao? |
Virág nem felel, magába roskadtan ül. Lassan feláll,
megöleli Tussingert. Mint aki nagyon hosszú útra készül. |
Đồng chí Virag ngồi rũ không trả lời. Lát sau đồng chí từ
từ đứng dậy ôm vai gã nhà văn như một người sắp đi xa,
rất xa. |
- Szervusz, Bélám! |
- Chào cậu. |
Az rémülten néz rá. |
Người kia hoảng hốt nhìn bạn. |
- Csak nem? Itt hagysz minket? |
- Cậu định thật đấy à? Cậu hãy nghĩ lại đi. |
Virág lehajtja a fejét, széttárja a karját, aztán elindul
lefelé a lépcsőn. |
Đồng chí Virag cúi đầu giang tay vô vọng rồi chậm chạp
bước xuống bậc thang. |
Pelikánnal nem törődik senki. A gátőr mintha mély
álomból ébredne, ijedten ugrik fel. |
Lúc này không ai để ý đến Pelikan cả. Gã canh đê dường
như chợt bừng tỉnh, hắn giật mình bật dậy. |
- Engem ne tessék itthagyni! |
- Ấy, đợi tôi với! |
És rohan Virág után, beül mellé a fekete autóba. |
Hắn cắm cổ chạy ra rồi nhảy lên trên chiếc xe đen ngồi
xuống cạnh đồng chí Virag. |
- A temetőbe! - hallja a sofőrnek adott parancsot. Ettől
nagyon furdalni kezdi a lelkiismeret. |
- Đến nghĩa trang! - Hắn nghe thấy tiếng đồng chí Virag
ra lệnh cho lái xe và càng ngày càng cảm thấy lương tâm
dằn vặt. |
- Virág elvtárs ... én igazán nem akartam ... én nem
akartam semmi rosszat. De amaz csak szomorúan mered
maga elé. |
- Thưa đồng chí… Tôi thật tình không chủ tâm… tôi quả
là không muốn gây chuyện… Nhưng đồng chí Virag chỉ
đờ đẫn nhìn trân trân ra trước mặt. |
- Higgye el, én nem akartam eláztatni Bástya elvtárs
előtt... - folytatja Pelikán a mentegetőzést. |
- Tôi thề với đồng chí là tôi không có ý định làm mất thể
diện đồng chí trước mặt đồng chí Bastya… - Pelikan tiếp
tục phân trần. |
De Virág elvtársat nem lehet búskomorságából
kizökkenteni. Hóna alól kiveszi a pisztolyát, felhúzza.
Belenéz a csövébe. |
Thế nhưng không có gì có thể làm đồng chí Virag bỏ dở
cơn ảo não của mình. Đồng chí rút khẩu súng lục đeo
dưới nách ra lên đạn, rồi ghé mắt nhìn vào họng súng. |
(còn tiếp) |
vnkatonak.com (AK_63) |