Saturday, September 23, 2023

GS Bùi Minh Phong được Nhà nước Hungary trao tặng Huân chương Chữ thập Hiệp sĩ (Bài phỏng vấn đăng trên tạp chí THỜI ĐẠI)

Sau hơn 37 năm giảng dạy và nghiên cứu ở trường Đại học Tổng hợp Eötvös Loránd (ELTE), GS Bùi Minh Phong vừa được Nhà nước Hungary trao tặng Huân chương Chữ thập Hiệp sĩ cao quý vì những đóng góp của ông trong lĩnh vực giảng dạy, nghiên cứu toán học, hợp tác khoa học và giáo dục.

Trong suốt thời gian làm việc ở Hungary bản thân giáo sư cũng đã cố gắng góp phần nhỏ để nâng tầm của người Việt Nam tại Hungary. Nhân dịp này, phóng viên Tạp chí Thời Đại đã có cuộc trao đổi với Giáo sư về Cộng đồng người Việt Nam tại đây cũng như phương thức phát huy hơn nữa nguồn lực, tiềm năng của cộng đồng trí thức kiều bào.

- Thưa Giáo sư, ngài có thể chia sẻ về cơ duyên của mình với đất nước Hungary?

Sau khi thi đỗ vào trường Đại học Sư phạm Vinh, tôi cùng 5 bạn khác của lớp chuyên toán được sang học tại trường sư phạm Eger mang tên Hồ Chí Minh ở Hungary theo thỏa thuận hợp tác. Tại trường sư phạm Eger, sinh viên Việt Nam luôn dẫn đầu các cuộc thi học sinh giỏi toán giữa các trường sư phạm toàn Hungary, bản thân tôi đã 3 lần đạt giải nhất. Từ năm thứ 2, tôi đã tham gia nghiên cứu khoa học và tham gia báo cáo các kết quả mình đạt được trong các hội nghị toán học sinh viên toàn Hungary. Năm 1976, tôi được nhận giải thưởng Rényi Kató của Hội Toán Học Hungary trao cho các sinh viên có thành tích trong nghiên cứu khoa học.

Hungary là một cường quốc toán học dù dân số chỉ gần 10 triệu người. Trên tất cả các chuyên ngành toán học, lĩnh vực nào Hungary cũng có người xuất sắc như: Pólya György, Neumann János, Erdős Pál, Szőkefalvi-Nagy Béla, Turán Pál, Rényi Alfréd, Lovács László... Được học toán trong một môi trường như vậy quả thật là một sự may mắn.

Con người và đất nước Hungary với tôi là hết sức thân thương và đáng quý. Các đồng nghiệp của tôi luôn nhiệt tình và giúp đỡ nhau. Tôi có hai người thầy nâng đỡ tôi nhiều trong chuyên môn đó là GS Kiss Péter và GS. VS. Kátai Imre. Với GS.VS Kátai Imre tôi đã viết chung được 52 bài báo khoa học.



Sau khi học xong, tôi cảm mến đất nước và con người nơi đây nên lựa chọn ở lại làm việc và định cư tại đất nước này.

- Được biết, dù sống và làm việc ở Hungary nhưng Giáo sư cũng có rất nhiều hoạt động gắn bó nơi quê nhà, Giáo sư có thể chia sẻ về điều này tới độc giả?

Dù sống ở đâu và làm gì, tổ quốc nơi mình sinh ra và trưởng thành là quan trọng nhất. Vì thế, tôi luôn dõi theo và quan tâm về tình hình đất nước với một tình cảm đặc biệt.

Tuy học và làm việc ở Hungary thời gian gần 44 năm (5 năm học đại học và 39 năm thực tập và làm việc), nhưng tôi vẫn là người của quê hương Hà Tĩnh, vẫn nói giọng của người xứ Nghệ, vẫn nghe hàng ngày những ca khúc quê hương.

Dịp kỷ niệm 150 năm thành lập huyện Hương Khê năm 2017, tôi vinh dự được mời về tham gia ngày hội, đại diện cho những người con thành đạt của quê hương đang công tác ở nước ngoài. Dịp đó tôi có cuộc nói chuyện và truyền lửa cho các em học sinh quê nhà. Cuộc nói chuyện dài hơn 2 tiếng đã để lại dư âm tốt cho học sinh trường THPT huyện Hương Khê.

Trước đó, trong thời gian 2006-2016 tôi nhiều lần tham gia vào các đoàn của trường ELTE thăm và làm việc với các trường đại học và các viện khoa học của Việt Nam. Năm 2015 tôi đại diện cho bà con Việt Nam tại Hungary về dự đại hội thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ IX. Năm 2018 tôi tham gia vào đoàn 70 Việt kiều thăm huyện đảo Trường Sa và nhà giàn DK1.

Hội người Việt Nam tại Hungary thành lập năm 1995 đã có nhiều đóng góp cho cộng đồng người Việt Nam tại Hungary. Sau này Hiệp hội người Việt Nam tại Hungary ra đời thống nhất các tổ chức trong cộng đồng thành một tổ chức duy nhất đại diện cho người Việt Nam tại Hungary. Hiệp hội đã thu hút được sự ủng hộ đông đảo của bà con, cùng ĐSQ tổ chức thành công các sinh hoạt cho cộng đồng như Tết, ngày sinh nhật Bác, ngày quốc khánh, Tết trung thu... Hiệp hội đã nhiều lần quyên góp ủng hộ bà con bị bão lụt ở Việt Nam với tinh thần lá lành đùm lá rách. Tôi là một thành viên trong ban lãnh đạo của hiệp hội và đã cùng tập thể lãnh đạo hoàn thành tốt các công việc đặt ra. Tôi hoạt động công tác Hội từ năm 1995 tới năm 2017.



- Giáo sư đánh giá như thế nào về Cộng đồng người Việt Nam tại Hungary?

Cộng đồng người Việt Nam tại Hungary có khoảng 5.000 - 6.000 người. Tuy số lượng khiêm tốn nhưng là một cộng đồng được nước bạn đánh giá cao, là một cộng đồng có tiềm năng. Trong đó, Hội trí thức người Việt Nam tại Hungary có khoảng 100 người với 6 giáo sư và nhiều phó giáo sư, tiến sĩ nhiều chuyên gia tin học và kinh tế. Có 30-40 người làm việc cho các trường, viện, công ty của nước bạn.

Thế hệ kiều bào thứ hai tại Hungary đã đạt các giải cao trong các kỳ thi chuyên môn như toán, vật lý, văn cũng như các kỳ thi năng khiếu như nhạc, cờ vua, thể dục thể thao…. Nhiều cháu bảo vệ tiến sĩ hay giữ những cương vị quan trọng trong các công ty đa quốc gia cả ở Hungary hay các nước khác trên thế giới.

Đặc biệt nhiều cháu sinh sống và học tập thời gian dài ở Hungary đã trở về Việt Nam sinh sống và làm việc, đưa những kiến thức học được ở nước bạn về phục vụ quê nhà.

-Theo giáo sư, chúng ta cần làm gì để phát huy hơn nữa nguồn lực, tiềm năng của cộng đồng trí thức kiều bào cũng như tăng cường sự phối hợp giữa các trí thức Việt Nam ở trong và ngoài nước?

Thời gian gần đây, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến bà con Việt Nam sống ở nước ngoài, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho bà con về thăm và đóng góp cho đất nước. Nghị quyết 36 về công tác người Việt nam ở nước ngoài đã tạo điều kiện cho bà con, các cháu học sinh về tham dự các sinh hoạt trong nước (các hội nghị Việt Kiều lần 1, 2..., trại hè Việt Nam, giỗ tổ Hùng Vương, Chương trình Xuân Quê hương, thăm Trường Sa...). Đây là những nỗ lực của đất mẹ giành cho bà con sống ở nước ngoài.

Tuy nhiên, theo tôi cần có những chính sách và phương pháp thu hút trở lại nhân tài Việt Nam phục vụ đất nước. Thực tế những cháu học giỏi được gửi đi học theo con đường nhà nước hay tự túc, tỷ lệ về lại đất nước làm việc khá khiêm tốn. Đây là một vấn đề cần giải quyết và có thể tham khảo các nước xung quanh như Nhật, Hàn Quốc và gần đây là Trung Quốc.

-Trân trọng cảm ơn Giáo sư!

Tuesday, July 11, 2023

HỘI HỮU NGHỊ VIỆT - HUNG ĐĂNG KÝ GẶP MẶT 20.08.2023

Form đăng ký GẶP MẶT 2023

BHC Hội Hữu Nghị Việt Nam - Hungary trân trọng thông báo và kính mời anh chị em Hội viên tới dự buổi gặp mặt thường niên kỷ niệm ngày Quốc khánh của hai nước Việt Nam và Hungary. 

Thời gian: từ 8g tới 15g, ngày CN, 20.08.2013;
Tại: Khách sạn Thắng Lợi, 200 Yên Phụ, Hà Nội.

Thông qua form dưới đây, Hội viên có thể đăng ký với BTC về sự có mặt của mình. Chỉ cần 3 thông tin là bạn đã giúp cho BTC có được con số phục vụ cho việc chuẩn bị.

Form này có thể truy nhập tới từ Group, Page Hội Việt – Hung, hoặc các trang http://www.vnkatonak.com/ http://hoiviethung.blogspot.com/ , hoặc có thể gửi đường link qua Zalo, Messenger… 

Hãy nhấn vào hình dưới đây để gọi form đăng ký. Xin chân thành cảm ơn.

Hướng dẫn đăng ký GẶP MẶT 2023

Đăng ký theo form gồm 3 thông tin:

1. Họ tên người thực hiện đăng ký (chỉ cần Họ và Tên của người thực hành khai form)

2. Danh sách Hội viên đăng ký (Đánh số thứ tự cho dễ đếm, ghi Họ tên, ghi thêm một số nội dung nhằm dễ phân biệt như: SV, NCS, TTS...; Trường nào; Năm nào; Thành phố nào??? Lưu ý: khi muốn xuống dòng, giữ phím Shift rồi gõ Enter!)

3. Số Hội viên đăng ký (là con số sẽ được cộng lại phục vụ cho việc chuẩn bị tiếp đón của BTC. Chỉ chọn từ 1 đến 10, nếu nhiều hơn, hãy khai thêm form khác! )

Nhớ nhấn nút GỬI sau khi khai form xong.

Hình sau đây là một ví dụ đã khai:


Danh sách đã đăng ký GẶP MẶT 2023

Bảng danh sách tổng hợp những người đã đăng ký là file Excel. 

Bảng Danh sách Hội viên đã đăng ký sẽ bao hàm kết quả của việc khai form đúng rồi nhấn GỬI.

Hy vọng, việc đăng ký tham dự GẶP MẶT 2023 sẽ diễn ra thuận lợi.

Ngoài cách trực tiếp đăng ký qua khai form, anh chị em Hội viên có thể nhờ người khác khai form hộ, hoặc gửi thông tin tới anh Vũ Hoài Chương, và tôi Nguyễn Sơn Hải, chúng tôi luôn sẵn lòng đáp ứng.

Khi phát hiện lỗi tại bảng Danh sách Hội viên đã đăng ký như: Trùng người đã đăng ký, hoặc sai sót cần sửa... xin hãy gửi cmt ngay dưới đây để chúng tôi can thiệp trực tiếp, chỉnh sửa.

Hãy nhấn vào hình dưới đây để xem kết quả đăng ký:

Sunday, June 27, 2021

A TANÚ - NHÂN CHỨNG. Song ngữ Hung Việt. Chương XIII.

18/11/2010

Người đàn ông to cao lực lưỡng đang kiên nghị nhìn thẳng tương lai Pelikan lòng đầy cảm thương nhìn bức tượng đồng của người đàn ông to cao lực lưỡng đang kiên nghị nhìn thẳng tương lai. Dưới chân tượng là một bảng đá cẩm thạch với dòng chữ:

"Cả đời vì nhân dân phục vụ,
Virag Arpad, 1907- "

Có lẽ chi tiết này của câu chuyện hoàn toàn là do tác giả hư cấu nên. Nhưng phải công nhận là cực đắt. Đó là thói suy tưởng công thần, coi mình, ngỡm mình sẽ luôn là bậc đáng kính muôn đời… ngay cả khi chết đi.

Giống như các vua chúa, kỳ công chuẩn bị lăng mộ cho chính bản thân mình.


MIÉRT VAN ITT ILYEN SÖTÉT, VIRÁG ELVTÁRS?

Chương XIII: SAO ĐÂY LẠI TỐI THẾ NÀY HẢ ĐỒNG CHÍ VIRAG?

Szép ilyenkor az őszi temető. Kis kupacokba gereblyézték a lehullott leveleket, és meggyújtották. Füstcsíkok szállnak az ég felé, megcsillan az őszi nap a fehér sírkövekén. Ezt nézi Pelikán József, és egy pillanatra el is feledkezik Virág elvtársról. Nghĩa địa vào mùa thu lúc này thật thơ mộng. Mấy đống lá khô người ta gom lại rồi châm lửa đốt nhả ra những tia khói ngoằn nghèo bay lên trời. Nắng thu lấp lánh đây đó trên các bia mộ bằng đá trắng. Pelikan mải nhìn cảnh thu mà quên cả đồng chí Virag trong vài giây phút.
- Hol álljak meg? - töri meg a csendet a gépkocsivezető. - Cho xe đến chỗ nào ạ? - Giọng người lái xe phá tan im lặng.
Halk, elszánt válasz: Câu trả lời khẽ nhưng cả quyết:
- A síremlékemnél. - Đến phần mộ của tôi.
Ünnepélyes lassúsággal gurul a fekete autó a napfényes temetőkben. Megállnak. Virág kiszáll, és leül a síremléke szélére. Pelikán összeszoruló szívvel nézi a daliás bronzférfit, aki bátor tekintettel néz a jövőbe, a talapzaton egy márványtábla: Chiếc xe hòm đen bệ vệ lăn bánh từ từ trong nghĩa trang rực nắng. Họ dừng lại. Đồng chí Virag bước xuống xe rồi ngồi xuống mé phần mộ của mình. Pelikan lòng đầy cảm thương nhìn bức tượng đồng của người đàn ông to cao lực lưỡng đang kiên nghị nhìn thẳng tương lai. Dưới chân tượng là một bảng đá cẩm thạch với dòng chữ:
„Egy élet a népért,
Virag Árpád 1907- "
"Cả đời vì nhân dân phục vụ,
Virag Arpad, 1907- "
A sofőr cigarettára gyújt, Virág a halántékához emeli a fekete pisztolyt. Tay lái xe châm thuốc hút, đồng chí Virag cầm súng lục nâng ngang thái dương.
Pelikán odarohan, lefogja a karját. Pelikan hớt hải chạy đến giữ tay đồng chí lại.
- Ne... ezt ne, Virág elvtárs! - Ấy, đừng, đừng đồng chí!
- Nem érdemes... - motyogja maga elé Világ. - Nem érdemes... - Không xứng...- đồng chí Virag thẫn thờ lẩm bẩm. - Hoàn toàn không xứng...
- Drága jó Virág elvtárs... Énmiattam? - szalad ki a kérdés Pelikánból. - Ôi đồng chí Virag ơi, tại tôi hay sao mà... - Hắn buột miệng.
- Nemcsak maga miatt... - Kinyitja a szemét, leereszti a fegyvert. - Mi egy életet áldozunk fel magukért, de maguk nem érdemelnek meg minket... Maguk egy szívtelen csürhe, és most még enyhén fejeztem ki magamat! - Không chỉ tại anh... - Đồng chí Virag mở mắt, để súng xuống. - Chúng tôi hy sinh cả đời chỉ vì các anh, nhưng các anh thật không xứng với những hy sinh của chúng tôi. Các anh là đồ bỏ đi. Đấy là tôi còn nói nhẹ đấy.
Leveti a zakóját, gombolni kezdi az ingét, hogy a fegyvert a szívéhez illeszthesse. Đồng chí cởi áo khoác ngoài rồi bắt đầu cởi khuy ngực áo sơ mi để chìa họng súng vào đúng tim mình.
- Ne! - fogja le újra a kezét Pelikán. - Én elismerem, hogy egy fölöttébb hülye, elmaradott pasas vagyok, de azért még ne tessék magát megöngyilkolni. Mielőtt meg tetszik húzni a ravaszt, tessék még egy kis szemináriumot tartani, hátha megértem, miról van szó. - Ấy đừng! - Pelikan lại một lần nữa giữ tay đồng chí. - Tôi xin thừa nhận tôi là một thằng ngu dốt, lạc hậu, nhưng xin đồng chí đừng vì thế mà huỷ hoại đời mình. Trước khi kéo cò, xin đồng chí bổ túc cho tôi một bài để tôi có chăng hiểu được vấn đề.
- Az igazságról - mondja Virág. Szavai mint kalapácsütések csapnak a temető csendjébe. - Az igazságról, amelyet lábbal taposnak. - Vấn đề ở đây là sự thật - Lời đồng chí gõ choang choang từng tiếng một vào im lặng của nghĩa địa. - Sự thật đang bị người ta chà đạp.
A válasz halk, de védekező: Tiếng hắn biện bạch lí nhí:
- Én igazán nem akartarn lábbal taposni. Csakhogy én a saját szememmel láttam... - Thực tình là tôi không có ý chà đạp. Nhưng khổ cái là chính mắt tôi nhìn thấy thế...
Virág keserűen felnevet. Đồng chí Virag cười chua chát.
- A saját szemével látta?! Ezen lovagol maga?! Amit a vaksi szemével lát, a botfülével hall, a tökfejével gondol? Hát az fontosabb, mint az igazság, amit a mi nagy céljaink elérésére alkalmazunk? - Chính mắt anh nhìn thấy à?! Anh tưởng ai cũng là trẻ con cả à? Anh có mắt cũng như mù, có tai như điếc, có óc mà không biết nghĩ! Anh tưởng là những cái anh nhìn, anh nghĩ quan trọng hơn sự thật cần thiết cho sự nghiệp của chúng ta hay sao?
Kitépi a karját Pelikán markából, megkerüli önnön síremlékét, hogy ismét homlokához emelhesse a fegyvert. Pelikán utánaveti magát, de ő elsiklik előle, kereng a szobor körül, ketten kenngélnek körülötte. Đồng chí giằng tay ra khỏi tay Pelikan rồi vòng sang bên kia phần mộ để chĩa súng vào thái dương mình. Pelikan vội vã nhảy theo định ôm lại, nhưng ông ta né được và tiếp tục chạy. Cứ thế hai người đuổi nhau vòng quanh phần mộ.
- Ne még, Virág elvtárs. Engem csak az tévesztett meg, hogy ismertem Dániel Zolit... Ez megzavart. Ha nem ismertem volna, sokkal könnyebben tudnék tanúskodni az ő bűnössége mellett. - Đồng chí hãy khoan đã. Khổ là tôi biết rõ Daniel Zoli quá nên không nhận ra được sự thật. Chỉ có mỗi điều này làm tôi không yên tâm. Nếu như tôi không quen biết gì thì tôi đã dễ dàng chỉ ra tội anh ta rồi.
Keserű kacaj csap az égre: Một tiếng cười cay đắng vang lên:
- Bűnös? Hát mutasson nekem egyetlen embert ebben a tetves országban, akiről öt perc alatt nem tudom bebizonyítani, hogy bűnös. Magáról is, magamról is, mindenkiról! - Tội ư? Anh thử chỉ cho tôi bất kỳ người nào trong đất nước chết tiệt này mà chỉ trong năm phút tôi không chứng minh được là có tội. Bất kỳ là ai, kể cả anh, kể cả tôi!
Pelikánt teljesen megzavarják ezek a szavak. Megrendül. Pelikan bị những lời này làm cho hoang mang cực độ. Hắn run rẩy.
- Lehet, hogy igaza van, Virág elvtárs... De tessék már eltenni azt a pisztolyt. - Có thể là đồng chí nói đúng, nhưng xin đồng chí hãy cất khẩu súng ấy đi.
A másik kezd életre kapni. Đối thủ của hắn dần tỉnh lại.
- Nem moralizálni kell, hanem cselekedni! De nézzük tovább… - Ráfogja a pisztolyt Pelikánra. - Én most szitává lőhetném magát. - Bây giờ phải hành động chứ không phải lúc nói suông. Nhưng ta phân tích tiếp...- Đồng chí chĩa súng vào Pelikan. - Anh có thể bị bắn tan xác ngay lập tức.
A másik bólogat: Hắn gật lấy gật để:
- Ez igaz. - Dạ, đúng thế ạ.
- Kiverhetném az összes fogát. - Hoặc tôi có thể đập trụi răng của anh.
- Azzal már el tetszett késni. - Dạ thưa, cái này thì đồng chí chậm mất rồi ạ.
- Forró kályhára ültethetném... nyakig vízbe állíthatnám... villanyt vezethetnék a heréibe ... - Tôi có thể cho anh ngồi lò lửa... dầm anh xuống nước... hoặc giả châm điện vào hai hột cà của anh...
Pelikánnak élénk a fantáziája; feljajdul. Virág folytatja: Trí tưởng tượng của Pelikan chợt hoạt động: hắn kêu oái, giật người. Đồng chí Virag tiếp tục:
- Vagy egyszerűen nem adnék magának enni... - Hoặc tôi cho anh nhịn đói...
- Ez lenne a legszörnyűbb... - Ôi thế thì chịu sao nổi...
- De én sose bántottam magát, Pelikán. Mert én olyan elvtársnak tartottam, aki önként, a maga akaratából, sőt örömmel teszi meg, amit eléje tűzünk. De csalódtam magában, Pelikán. Ezért hagyok itt most mindent. - Nhưng tôi không bao giờ hại anh, anh Pelikan ạ. Vì tôi nghĩ rằng anh là một đồng chí đáng tin cậy sẵn sàng tự ý, tự nguyện làm bất kỳ gì được giao. Thế nhưng anh làm tôi thất vọng quá. Vì thế tôi chẳng còn thiết gì nữa.
Ismét maga felé fordítja a pisztolyt. Pelikán elé áll, most nagyon ünnepélyes. Nói xong đồng chí lại cầm súng chĩa vào mình. Pelikan bước đến trước mặt đồng chí Virag giọng nghiêm trang quả quyết.
- Nem fog csalódni bennem, Virág elvtárs! - Tôi xin hứa sẽ không làm đồng chí phải thất vọng!
Virág visszadugja a pisztolyt a hóna alá, és könnyes szemmel magához öleli Pelikánt. Đồng chí Virag đút khẩu súng lục vào bao đeo dưới nách rồi rưng rưng nước mắt ôm Pelikan.
- Köszönöm, Pelikán elvtárs. A hitemet adta vissza. - Cảm ơn, rất cảm ơn đồng chí Pelikan. Đồng chí đã trả lại niềm tin cho tôi đó.
Frissen, ruganyosan megy vissza a kocsihoz. Beülnek, távolodik a temető. Virág dudorászik. Egyszerre megszólal Pelikán. Đồng chí nhanh nhẹn quay lại xe ô-tô. Họ lên xe, nghĩa địa dần xa. Đồng chí Virag cất giọng ca khe khẽ. Pelikan bỗng cất tiếng.
- De hát, ha Dániel Zoli bevallotta... - Thế nhưng, nếu Daniel khai...
- Most meg mit akar megint? - Anh lại muốn gì nữa đấy?
- Nem beszélhetnék én ővele? Tanúskodok én, ne tessék izgulni... de mégis... Ha ővele is beszélhetnék... mégiscsak más volna... - Cho tôi nói chuyện với anh ta có được không ạ? Xin đồng chí đừng lo, tôi sẵn sàng làm chứng...nhưng...nhưng nếu như tôi được nói chuyện với anh ta thì cũng khác hơn...
- Ne nyafogjon annyit... - inti le Virág. - Ha csak erre vágyik, találkozni fog Dániellel. - Thôi đừng kèo nhèo nữa...- đồng chí Virag gắt hắn. - Nếu anh chỉ có mỗi nguyện vọng này thì đấy, anh sẽ được gặp hắn.
És már súg is valamit a sofőr fülébe. Behajtanak egy udvarba, beszállnak egy nagy, rácsos liftbe. Felmennek egy vasfolyosón, lemennek egy vasfolyosón, aztán Virág kinyit egy különleges zárat, különleges kulccsal. Nói rồi đồng chí quay sang thì thầm gì với tay lái xe. Họ đến một sân trong rộng, sau đó bước vào một chiếc thang máy có lưới sắt bao quanh. Họ đi lên một hành lang sắt rồi lại đi xuống một hành lang sắt, sau đó đồng chí Virag móc một chiếc chìa khoá đặc biệt mở một cánh cửa đặc biệt.
- Tessék. Itt van a maga Dánielje. - Đây, Daniel của anh đây.
Pelikán belép. Bent koromsötét. Pelikan bước vào, bên trong tối đen như mực.
- Miért van itt olyan sötét, Virág elvtárs? - Tại sao ở đây tối thế?
- Mert ez egy sötétzárka, Pelikán. Csak beszélgessenek. - Vì đây là khám kín. Các anh cứ nói chuyện với nhau đi.
És fémes döndüléssel bezárul a zárkaajtó. Cửa xà lim loảng xoảng đóng lại.
Pelikán csak áll a sötétben, erőlteti a szemét, de hiába. Pelikan đứng trong bóng tối căng mắt nhưng không nhìn thấy gì cả.
- Van itt valaki? - kérdi bizonytalanul. - Có ai ở đây không? - Hắn ngập ngừng hỏi.
Csend. Không có tiếng trả lời.
- Dániel elvtárs! Dániel Zoli, itt vagy? - kérdi hangosabban. - Daniel Zoli, cậu có ở đây không đấy? - Hắn hỏi to hơn một chút.
Megszólal egy hang: Có ai đó lên tiếng:
- Ki az? - Ai đấy?
Pelikán megismeri, megörül. Pelikan nhận ra, mừng rỡ.
- Én vagyok, Pelikán. Pelikán Jóska, a gátőr. - Tớ đây, Pelikan đây. Pelikan canh đê đây.
Újra csend, Pelikán előrenyújtott kézzel, botorkálva elindul a hang irányába. Valamit felborít. Csörömpölés. Tất cả lại yên lặng, Pelikan đưa tay quờ quạng theo hướng giọng vừa nói. Hắn làm đổ cái gì đó. Tiếng kêu loảng xoảng.
- Vigyázz: balra... - irányítja Dániel. - Erre, Jóska... erre. - Cẩn thận! Sang trái một tí...- Daniel hướng dẫn bạn. - Lại đây, Joska...lại đây.
Már közelró1 hallani a másik ember lélegzését. A gátőr ujja hegyével megérez egy emberi arcot. Szótlanul összeölelkeznek. Aztán Dániel: Đã có thể cảm thấy hơi thở của người đứng gần. Tay gã canh đê sờ xoạng khuôn mặt quen thuộc. Hai người ôm nhau không nói một lời. Cuối cùng Daniel lên tiếng:
- Hát te? - Sao cậu...?
És Pelikán: Pelikan hỏi lại:
- Hát te? - Thế cậu...?
- Mi van a Dunával? - Tình hình sông Đu-na thế nào?
- Árad, a fene egye meg. - Mẹ kiếp, nước lên cao quá.
- Téged mikor gyűjtöttek be? - Họ tóm cậu khi nào?
- En csak tanú vagyok. - Ebben némi szégyenkezés csendül. - Không, tớ chỉ là nhân chứng thôi. - Pelikan ngượng ngùng nói.
- Tanú? Milyen tanú? - Sao lại nhân chứng? Nhân chứng gì cơ?
- A te ügyedben. Én nem akartam. De azt mondták: muszáj. - Nhân chứng trong vụ của cậu. Tớ không muốn. Nhưng họ bảo là bắt buộc.
Kis szünet. Aztán Dániel folytatja: Họ im lặng một lúc rồi Daniel tiếp tục.
- Értem. Hát akkor tanúskodj. - À, hiểu rồi. Thế thì cậu cứ làm chứng tự nhiên.
- Én már tanúskodnék, de amilyen marha vagyok, sehogyan sem hiszem el az egészet. Azért is kéne, hogy veled beszélgessek. - Tớ sẵn sàng làm chứng, nhưng khổ cái là tớ ngu đần đến nỗi không thể tin được tí nào vụ này cả. Chính vì thế mà tớ muốn nói chuyện với cậu.
Tompa, színtelen a válasz: Câu trả lời uể oải:
- Hát beszélj. - Thế cậu cứ nói đi.
- Én nem tudok mit mondani. Te beszélj. Tudniillik én nem hiszek el semmit, amit rólad el kell mondanom. - Tớ không biết nói cái gì. Cậu phải nói mới đúng, vì thực tế tớ hoàn toàn không tin những điều tớ phải nói về cậu.
- Tényleg nem hiszed el? - éled fel Dániel hangja. - Thật là cậu không tin à? - giọng bạn hắn chợt hy vọng.
- Hát persze... - mondja Pelikán egyszerűen. - Elég régen ismerlek, vagy mi a fene?! Most én nyomjalak a víz alá? Szóval, beszélj. Ha tőled hallom, én elhiszem. - Là cái chắc... - Pelikan chân thành nói. - Tớ quen cậu từ lâu, đúng không nào?! Giờ chả nhẽ lại hại cậu à? Thế nên cậu nói đi. Cậu nói gì tớ cũng tin.
Csend. Không có tiếng trả lời.
Dániel feláll, járkál a cellában, aztán töprengve megszólal. Bạn hắn đứng dậy, đi đi lại lại trong khám rồi nghĩ ngợi nói.
- Nézd, Jóska... Én nem véletlenül kerültem ide... Az ember úgy is lehet bűnös, hogy nem is tud róla. - Joska, cậu thấy đấy... Tớ phải vào đây không phải là ngẫu nhiên... Người ta nhiều khi không biết vì sao lại có tội.
- Értem - bólint Pelikán a sötétben. - Illetve nem értem. Én ott voltam a Dunán. És ott nem voltak semmiféle békaemberek, sem ürgebőrbe bújtatott titkos iratok. Egyszerűen vízbe rántott az a nyavalyás harcsa. - Tớ hiểu - Pelikan gật gù trong bóng tối. - Nói cách khác là tớ không hiểu. Tớ cũng ở đó với cậu bên bờ sông Đu-na mà có thấy người nhái, người ếch hay tài liệu bọc trong da chuột đồng nào đâu. Chỉ có cậu bị con nheo bỏ mẹ đó nó kéo ngã xuống nước thôi.
Dániel megint fáradtan kérdez vissza: Bạn hắn lại mệt mỏi hỏi lại:
- Fontos ez? - Cái này có quan trọng gì cơ chứ?
- Nem fontos? - Sao lại không quan trọng?
- A fontos az, hogy én bűnös legyek. - Mintha egy kéz legyintene a sötétben. Mély sóhajt hallani. - Könnyebb volt harcolni a barikádokon. Az igazság az, hogy mi csak figurái vagyunk egy rettenetes sakkjátszmának. Van egy cigarettád? - Quan trọng nhất là tớ phải là kẻ có tội. - Dường như có ai phảy tay trong bóng tối kèm theo tiếng thở dài. - Đấu tranh trực diện với quân thù sao mà dễ thế. Nói trắng ra thì chúng ta chỉ là những con tốt đen trong một ván bài khủng khiếp. Cậu có thuốc không?
Pelikán ad neki egyet, és nagyon élénken kérdi: Pelikan chìa cho bạn một điếu rồi nhớn nhác hỏi:
- Te is csak figura vagy? Akkor mit szóljak én? - Tüzet ad. - Nekem valami rossz érzésem van... Nem lesz ebből baj? - Cậu cũng chỉ là tốt đen thôi à? Thế thì còn kể gì đến tớ. - Hắn châm lửa. - Tớ cảm thấy có điều gì không ổn ... Có chắc là sẽ không có can hệ gì từ vụ này không?
Dániel mélyet szív a cigarettából, a felparázsló tűz megvilágítja nyúzott arcát. Fáradtan elmosolyodik. Daniel rít một hơi thuốc dài, đầu điếu thuốc cháy soi rõ một bộ mặt phờ phạc. Ông ta cười gượng gạo.
- Remélem, túléljük. - Hy vọng là chúng ta sẽ thoát.
Ebben a pillanatban nyilik az ajtó, a keretében Virág. Đúng lúc đó cửa xà lim mở và đồng chí Virag hiện ra.
- Befejezték? - Xong chưa?
Pelikán némán kezet fog Dániellel, kimegy az ajtón. Pelikan lẳng lặng bắt tay bạn rồi đi ra.
Kinn Virág átfogja a vállát. Ra đến ngoài đồng chí Virag quàng vai hắn.
- Most már jelenthetem Bástya elvtársnak? - Bây giờ tôi đã báo cáo đồng chí Bastya được chưa?
Fáradt bólintás: Hắn gật đầu mệt mỏi:
- Mindent jelenthet. - Báo gì cũng được.
Virág már a fekete autóból feltárcsázza Bástya elvtársat. De a tábornok házon kívül van. Đồng chí Virag gọi điện cho đồng chí Bastya ngay ở trong xe, nhưng vị tướng không có ở cơ quan.
- Utánamegyünk! - mondja diákos izgalommal. - Volt már hajtóvadászaton? - Ta đi thẳng đến đó! - đồng chí hồi hộp nói như một học sinh trước kỳ thi. - Anh đã đi săn bao giờ chưa?
- Még sosem - mondja Pelikán. - Chưa bao giờ. - Pelikan trả lời.
- Nem baj. Ezt is el kell kezdeni. - Không sao. Món này cũng phải quen đi là vừa.
(còn tiếp) vnkatonak.com (AK_63)

Saturday, June 19, 2021

A TANÚ - NHÂN CHỨNG. Song ngữ Hung Việt. Chương XII.

14/03/2010

Duyệt bản thảo tác phẩm: Tóm lại là cần có một kịch bản cho tội phản bội tổ chức, cấu kết với đế quốc... Để sau đó có thể là tử hình, là tù tội dài dài...

Đc Virag đã nhờ một nhà văn quen biết, có trí tưởng tượng tuyệt vời, sau một hồi lao động đã tạo nên những tình tiết cực kỳ sáng tạo dựa trên các sự kiện hoàn toàn vô hại, chẳng đâu vào đâu để khép tội đc Daniel.


LEGYEN DOBOZ, DE ÜRGEBÖRBE VARRVA!

Chương XII: HỘP CŨNG ĐƯỢC, NHƯNG BỌC DA CHUỘT ĐỒNG

A Duna sajnos áradt. Pelikán józsef néhány önkéntes falusival homokzsákokkal magasítja a gátat, mikor váratlanul megérkezik Virág elvtárs, és beülteti maga mellé a fekete kocsiba. Khổ nỗi nước sông Đu-na ngày càng cao. Pelikan đang cùng vài người tình nguyện trong thôn xếp các bao tải cát để đắp đê cao lên thì bỗng nhiên đồng chí Virag đến và gọi hắn lên ngồi cạnh mình trong chiếc xe hòm đen.
- Hová megyünk? - kérdi tőle szorongva. - Đi đâu vậy, đồng chí? – Pelikan lo lắng hỏi.
- Mára lesz kész a vallomása. Bevallom, egy kicsit én is izgulok. - Cinkosan megtoldja: - Megkérhetem valamire? Legyen tapintatos. Ha valami nem tetszik, mondja meg nekem. Tussinger elvtárs nagyon érzékeny... afféle művészlélek... Szóval, érti? - Hôm nay, theo dự tính lời tự thú của đồng chí sẽ xong. Thú thực là tôi cũng hồi hộp chứ chẳng phải không. - Đồng chí tin cẩn quay sang hắn: - Tôi có thể yêu cầu đồng chí ý tứ một chút được không? Nếu có điểm nào không vừa ý thì nói cho tôi biết thôi. Đồng chí Tussinger (Tu-sin-ge) là dễ tự ái lắm… chả là tâm hồn nghệ sĩ mà…Đồng chí hiểu ý tôi chứ?
A gátőr nem érti, de bólint. Gã canh đê không hiểu, nhưng gật đầu.
Az író elvtárs alkotóháza fent van a hegyekben. A teraszon, amelyet hatalmas zöld lucfenyők vesznek körül, egy faragott íróasztalnál ül Tussinger, és veri az írógépet. Fekete, szőrös férfi, atlétatrikóban, többnapos szakállal. Nơi sáng tác của đồng chí nhà văn là ngôi nhà mãi tít tận trên núi. Trên sân hiên được trồng thông xung quanh đồng chí Tussinger đang ngồi đánh máy như điên cạnh một chiếc bàn chạm trổ. Đó là một người tóc đen lông lá, mặc áo may ô, râu mấy ngày chưa cạo.
- Itt vagyunk, Tussinger elvtárs! - köszön rá Virág. - Mára ígérted! - Chào đồng chí Tussinger, chúng tôi đến rồi đây. - Đồng chí Virag cất tiếng chào. - Cậu hứa là hôm nay sẽ xong đấy nhé!
Tussinger szív egyet a cigarettáján, de nem néz fel az írógépről. - Người kia rít một hơi thuốc lá, nhưng vẫn không ngẩng lên.
- Nem vagyok gép - morogja. – Üljetek le. - Tôi không phải là cái máy. - Hắn cằn nhằn. – Các cậu ngồi xuống đi.
Virág és Pelikán leülnek a hófehér szecessziós kerti székekre, és hallgatják a féktelen madárcsicsergést, amit még az írógép zakatolása sem tud elnyomni. Đồng chí Virag và Pelikan ngồi xuống ghế ngoài trời kiểu tân cổ sơn trắng tinh lắng nghe tiếng chim hót líu lo vang rộn át cả tiếng loạch xoạch của cái máy chữ.
- Én nem sürgetlek -jegyzi meg halkan Virág -, te mondtad ezt a dátumot. - Tớ không giục cậu - đồng chí Virag nói khẽ - Chính cậu nói là ngày hôm nay sẽ xong.
- Akkor is - duzzog Tussinger - ez nem cipőgyártás. - Ujjai sebesen ugrálnak a betűkön, végül leüti az utolsó pontot, kirántja a papírt a gépből. - Nói thì nói, nhưng đâu có dễ - Người kia làu bàu: - Đây không phải là xưởng sản xuất giày.- Mấy ngón tay hắn múa tít trên phím chữ, cuối cùng hắn mổ dấu chấm hết rồi giật bản thảo ra khỏi máy chữ.
- Készen vagyok - mondja megkönnyebbülve. - Xong rồi đây – gã văn sĩ thở phào nhẹ nhõm.
Összerakja a gépelt papírlapokat, rendbe rak két példányt, odaadja. Hắn ta sắp xếp lại các tờ giấy đã đánh máy, chia làm hai bản rồi đưa cho khách.
- Tessék, lehet olvasni! - Tölt magának egy pohár italt, mohón felhajtja. - Tudod, Virág elvtárs, hogy milyen szigorú vagyok magamhoz. De úgy érzem: ilyen jót még nem írtam életemben. - Đây, cậu đọc đi! - Hắn tự rót rượu cho mình rồi làm một tợp hết sạch. - Cậu biết là tớ luôn tự nghiêm khắc với bản thân tới mức nào. Nhưng tớ phải thú thực là trong đời chưa bao giờ viết hay như thế này.
Megnézi, végigméri a másik jövevényt. Hắn đưa mắt nhìn từ đầu đến chân người khách thứ hai.
- Maga az a Pelikán? - Anh là Pelikan đấy à?
- Én vagyok. - Dạ vâng.
- Irigylem magát. Na, olvassa. - Tôi thực sự ghen với anh. Nào, anh đọc đi.
Azok ketten olvasni kezdik a vallomást. Tussinger újra tölt az aranybarna konyakból, fel-alá sétál, figyeli az arcukat. Nem bírja ki, hogy meg ne kérdezze: Thế là cả Pelikan lẫn đồng chí Virag cắm đầu đọc bản tự khai. Tussinger lại tự rót cho mình một cốc cô-nhắc nâu vàng nữa rồi đi đi lại lại theo dõi thái độ của các độc giả. Cuối cùng không nhịn được nữa, hắn hỏi:
- Hol tartasz? - Nào, đọc đến đâu rồi?
- A békaembereknél... - néz fel Virág. - Đến đoạn bọn người nhái… - đồng chí Virag nhìn lên.
- Eddig hogy tetszik? - Cho đến đây cậu thấy thế nào?
- Eddig jó. - Elismerően bólint: - Semmi sablon. - Rất khá. - đồng chí Virag gật gù thừa nhận: - Không khuôn mẫu tí nào.
- Ötször átírtam - törli ki a hónaljából a verítéket zsebkendővel Tussinger. - Utálom az elhasznált patronokat. No, olvassák csak nyugodtan. - Tớ phải viết lại năm lần đấy - Hắn lấy khăn mùi xoa lau mồ hôi nách. - Tớ ghét nhất là dập khuôn sáo rỗng. Nào, các cậu cứ đọc tự nhiên.
Virág elolvasta, elgondolkodva teszi le az iratcsomót. Đồng chí Virag đọc xong rồi trầm ngâm đặt bản thảo xuống.
- Nos? - kérdi Tussinger izgatottan. - Thế nào? – Tussinger hồi hộp hỏi.
- Nagyon szép. - Virág elismerően lehunyja a szemét. - Rất hay. - Đồng chí Virag từ từ nhắm mắt khen bạn.
Pelikán sokkal lassabban olvas, egyre kevésbé érti az egészet, még a szemüvegét is felteszi. Pelikan đọc chậm hơn nhiều, vì hắn ngày càng thấy khó hiểu lời tự khai của mình đến nỗi phải đeo kính cho rõ.
- És ezt mind nekem kell elmondani? - szólal meg végre vérvörösen. - Tất cả đây là lời tôi phải nói à? - Cuối cùng hắn hỏi mặt đỏ gay.
- Maga a koronatanú, nem? - néz rá Tus-inger sértődött kihívással. - De csak mondja meg, ha valami nem tetszik. Én bírom a kritikát. No, kezdje, jó ember! - Anh là nhân chứng chính chứ còn ai nữa? – Tussinger nhìn hắn với chút tự ái. – Nhưng nếu có điểm nào đó chưa bằng lòng thì anh cứ nói thẳng. Phê bình đối với tôi là chuyện thường. Nào, có muốn thì nói đi!
Hol is kezdje? Tétován vág neki. Pelikan phân vân không biết phải bắt đầu từ đâu.
- Kérem szépen, én igazán nem értek hozzá, ideológiailag is teljesen kezdő vagyok, de az mégis csak marhaság, hogy Dániel elvtárs fémdobozokat dobált be a Dunába, és azokban voltak a kémjelentések. - Thưa đồng chí, tôi thật ra không phải chuyên viên khoản này, mà về mặt tư tưởng thì tôi mới chỉ vỡ lòng, nhưng viết là đồng chí Daniel ném hộp sắt chứa các báo cáo gián điệp xuống sông thì rõ ràng là chuyện bịa đặt nực cười.
- Miért, maga szerint miket dobott be a Dunába? - kérdi Tussinger sértett gúnnyal. - Húsvéti tojásokat? - Anh đừng có ăn nói linh tinh. Theo anh thì Daniel vứt gì xuống sông? – Tussinger hỏi với giọng hằn học mỉa mai. - Bánh vẽ chắc?
- Ürgéket - mondja Pelikán lelkes meggyőződéssel. - Ezt onnan tudom, hogy előzőleg levágtam a farkukat. El is adták a gyerekek a MÉH-nek, farkanként két forintért. - Đồng chí ấy ném chuột đồng. – Pelikan hăng hái tin tưởng vào sự thật. – Tôi biết rõ vì trước đó chính tự tay tôi cắt đuôi chúng để bọn trẻ mang ra phòng thu mua lĩnh tiền thưởng năm xu một chiếc.
- Fuj! - undorodik az egésztől Tussinger. - Kit érdekel ez? Tiszta naturalizmus. Aztán?! - Tởm! – lão Tussinger nhăn mặt – Có ai quan tâm gì đến cái này. Hoàn toàn là chủ nghĩa tự nhiên thuần tuý. Còn gì nữa?!
Most már megy a kritika: Bây giờ mới đích thực là phê bình:
- Aztán az se stimmel, hogy Dániel elvtárs beugrott a Dunába, és a víz alatt beszélte meg a békaemberekkel a mi bölcs nagy vezérünk és a többi elvtárs meggyilkolását. Dániel elvtárs egy harcsa után futott, úgy esett be a vízbe. - Rồi thì chuyện đồng chí Virag nhảy xuống đáy sông Đu-na để bàn với người nhái âm mưu ám sát lãnh tụ vĩ đại anh minh của chúng ta và các đồng chí lãnh đạo khác thì thực là vớ vẩn. Thực ra là đồng chí ấy giằng co với con cá nheo to rồi bị ngã xuống nước.
- Látta maga azt a harcsát? - csap le rá Tussinger. - Anh có nhìn thấy tận mắt con cá nheo đấy không? – Tussinger không bỏ lỡ cơ hội.
Váratlan a kérdés, szeppent a válasz: Câu hỏi thật bất ngờ nên câu trả lời hơi do dự:
- Nem láttam. - Không, tôi không thấy.
- Na látja, akkor mit kritizál?! - Tussinger sértődötten kezd fel és alá járkálni, látszik, hogy nagyon emészti magát. - Az ürgéken lehet vitatkozni, de a békaembereket nem hagyom. Mi a véleményed, Virág elvtárs? - Thế thì anh còn giở giọng phê bình cái gì?! – Tussinger mặt đỏ gay đi đi lại lại rõ ràng là đang kìm cơn tự ái đang bùng lên. – Tranh luận về chuột đồng thì còn có thể được, nhưng đừng có động vào đám người nhái của tôi. Theo cậu thì thế nào, đồng chí Virag?
Virág megsimítja a bajuszát, és feláll. Érzi, hogy neki kell a feszültséget megszüntetnie. Karon fogja Tussingert, vele együtt folytatja a sétát, nyugtatgatja. Đồng chí Virag miết râu mép rồi đứng dậy. Ông linh cảm thấy trách nhiệm của mình là phải hoà giải căng thẳng lúc này. Đồng chí quàng tay Tussinger kéo đi dạo rồi vỗ về.
- Szerintem jók a békaemberek. A fémdobozokat esetleg át lehet írni. - Theo tớ thì đám người nhái được. Hộp sắt thì có thể nên viết lại.
Tussinger megmerevedik, mélységesen meg van sértve. Tussinger sững người lại vì lòng tự trọng bị tổn thương nặng.
- Átírni? Jó, én átírom, de akkor ti mondjátok meg, hogy hogyan. - Viết lại là thế nào? Thôi được, tôi sẽ viết lại nhưng xin các anh đọc cho tôi viết.
És várakozva néz. Thế rồi hắn nhìn đồng chí Virag chờ đợi phản ứng.
Virág lehunyja a szemét, ismét belekarol Tusaingerbe. Đồng chí Virag lại nhắm mắt rồi lại quàng tay Tussinger.
- Lehet, hogy hülyeséget mondok - kockáztatja meg -, de mit szólnál ahhoz, ha például maradna a doboz, de ürgebőrbe varrva? Így talán még hitelesebb volna. - Có thể là tớ nói dớ dẩn - đồng chí thử lời – nhưng giả dụ là ta vẫn giữ hộp sắt, nhưng khâu vào da chuột đồng thì cậu thấy thế nào? Như thế có khi sát thực hơn.
Tussinger elgondolkodik, elismerően bólint. Tussinger nghẫm nghĩ rồi gật đầu thừa nhận.
- Nem rossz. Egész jó írói vénád van, Virág elvtárs. Miért nem írsz? - Cũng không phải là tồi. Xem ra cậu cũng có khiếu văn ra phết. Tại sao cậu không thử viết nhỉ?
Virág szerényen lehunyja a szemét. Đồng chí Virag khiêm tốn nhắm mắt.
- Nincs időm. És vannak, akik ezt jobbam értik. - Tớ không có thời gian, mà còn có những người còn viết giỏi hơn.
- Jó. Az ürgéket átírom. - Pelikánhoz fordul. - Na? Van még valami kifogása? - Thôi được. Tớ sẽ viết lại đoạn chuột đồng. - Tussinger quay về phía Pelikan sẵng giọng. – Nào còn gì nữa thì nói nốt đi.
- Ha meg nem sértem az elvtársat... Az a titkos rádiózás a vendégszobában... - Széttárja a karját. - Lehet, hogy én rosszul emlékszem, de Dániel elvtárs csuromvíz volt, hangosan vacogott, és én befektettem a dunyha alá... - Nếu như tôi không làm đồng chí phật ý…Cái chuyện đánh điện đài bí mật trong buồng khách nhà tôi… - Pelikan giang tay. – Có thể là tôi nhớ không rõ, nhưng đồng chí Daniel bị ướt như chuột lột, run cầm cập nên tôi phải để vào giường nằm đắp chăn…
- Miért? Dunyha alatt nem lehet rádiózni? - Thế thì sao nào? Chẳng nhẽ không đánh điện đài được ở trong chăn à?
- De nekem egész másról van tudomásom - jegyzi meg szerényen Pelikán. - A dunyha alatt tudniillik ott volt a kislányom, Gizi is. És szó sem volt rádiózásról. - Nhưng theo tôi biết thì lại là chuyện hoàn toàn khác xảy ra. – Pelikan nhỏ nhẹ. - Ở trong chăn còn có cả con Gizi nhà tôi nữa. Hoàn toàn không dính dáng gì đến điện đài cả.
Tussinger megvetéssel szól közbe: Tussinger khinh bỉ ngắt lời hắn.
- Fuj. Ilyen disznóságokat akar elmondani? Tiszta pornográfia. - Rõ tởm! Anh định đem chuyện bẩn thỉu ấy ra mà kể à? Thật là văn hoá đồi truỵ quá thể.
- Az lehet, kérem - kap ezen Pelikán. -Én azt mondtam Gizinek, hogy vigyen be neki forró teát, az én drága lányom pedig nem állt meg a teánál. - Có thể là đồi truỵ thật, thưa đồng chí – Pelikan tiếp tục. – Tôi bảo con cháu mang nước chè nóng vào cho khách, nhưng khổ nỗi chè nóng nó cho là chưa đủ.
- Szép kis apa maga! Van még valami kifogása? - Thật cha nào con ấy! Còn thắc mắc gì nữa không nào?
Még mielőtt Pelikán felelhetne, közeledő autószirénahang veri fel a kies erdő csendjét. Virág és Tussinger jelentőségteljesen egymásra néznek. Az író az ingéért nyúl, villámgyorsan fölkapja, begombolja, nyakkendőt köt, felveszi a zakóját. Mindketten vigyázzba merevednek. Trước khi Pelikan kịp trả lời thì bỗng có tiếng còi hú dài phá tan không khí yên ắng trong rừng. Đồng chí Virag và lão nhà văn nhìn nhau đầy ngụ ý. Tussinger mặc vội áo sơ mi, thắt cà vạt rồi choàng áo ngoài chỉnh tề. Cả hai đứng nghiêm chờ đợi.
Kisvártatva Bástya elvtárs vonul be a teraszra két hadsegéde kíséretében. Một lát sau đồng chí Bastya bước vào sân hiên, đằng sau là hai sĩ quan trợ lý.
- Erőt, egészséget, Bástya elvtárs! - Chúc đồng chí khoẻ! - cả hai hô.
- Pihenj! - int Bástya elvtárs. Tussingerhez fordul. - Kész van? - Nghỉ! - đồng chí Bastya đưa tay ra lệnh rồi quay sang lão nhà văn. – Xong chưa?
- Kész vagyok, Bástya elvtárs. - Báo cáo đồng chí, xong rồi ạ.
- Ide vele! - Đưa tôi xem!
Tussinger átnyújtja a kéziratköteget. A tábornok felteszi a szemüvegét, olvasni kezd. Egyszerre sötétre komorul szép buldogarca. Tussinger trịnh trọng đưa tập bản thảo. Vị tướng đeo kính lên mắt rồi đọc. Tự nhiên bộ mặt hơi phù của đồng chí tối sầm.
- Mi az?! Hát Bástya elvtársat már meg se akarják gyilkolni?! - Villámló szemekkel néz Tussingerre. - Én már szart érek?! - Cái gì thế này?! Không đứa nào muốn ám sát đồng chí Bastya à?! - Cặp mắt đồng chí toé lửa nhìn lão nhà văn. – Tôi chả là cái cứt gì nữa à?!
Az író falfehéren mentegetőzik. Tussinger mặt trắng bệch phân trần.
- Gondoltam ... az előző perben is... nem akartam magam ismételni... De önkritikát gyakorolok. Bástya elvtársat a második helyen akarták meggyilkolni. Jó lesz így? - Dạ tôi cũng có nghĩ… cả trong vụ án trước cũng có ạ… giờ tôi không định lặp lại… Nhưng tôi xin tự phê. Đồng chí Bastya sẽ đứng thứ hai trong danh sách những người chúng định ám sát. Có được không ạ?
- Jó - enyhü1 meg a buldogarcú tábornok. - Különben tetszik. - Được - vị tướng đã bớt giận. – Nhìn chung thì lời khai rất khá.
- Nekem is tetszik - buzgólkodik Virág. - Sok álmatlan éjszakánk fekszik benne. Kerültük a sablonokat. - Báo cáo, tôi cũng thấy như vậy ạ - đồng chí Virag hăng hái. – Đây là kết quả của bao đêm mất ngủ của chúng tôi đấy ạ. Chúng tôi cố gắng tránh các khuôn mẫu cứng nhắc.
- Szerénység - inti le Bástya elvtárs. - Ne tömj énezze magát. - Hãy khiêm tốn - đồng chí Bastya khuyên dụ. – Anh đừng quá tự khen mình.
- Igenis - merevedik vigyázzba Virág. - Nem fogom magam tömjénezni. - Báo cáo, rõ! - đồng chí Virag đứng nghiêm phắt. – Tôi sẽ không tự khen mình quá nữa ạ.
- Szerénység... - mereng el Bástya elvtárs. - Ha én szeretek valamit magamban: az a szerénység. - Khiêm tốn… - đồng chí Bastya trầm nghâm suy nghĩ. - Đức tính của bản thân mà tôi ưa nhất chính là sự khiêm tốn.
Meghatva állnak valamennyien. Most Bástya elvtárs felemeli a fejét, megakad a szeme Pelikánon. Tất cả đứng im bồi hồi. Đồng chí Bastya ngẩng đầu lên và chợt nhìn thấy Pelikan.
- Ez a dagadt kicsoda? - Tay bệu này là ai vậy?
- Pelikán - mondja Virág. - Ő lesz a koronatanú. - Đây là Pelikan - đồng chí Virag trả lời. – anh ta sẽ là nhân chứng chính.
A kiszemelt viszont úgy érzi, elérkezett a pillanat, amikor fordíthat a helyzeten. Người được chọn lựa giờ cảm thấy thời cơ thoát hiểm của hắn đã đến.
- Bástya elvtárs, kérem... - kezdi el bizonytalanul. - Én őszintén megvallom... én ideológiailag... én csak egy egyszerű gátőr vagyok... - Thưa đồng chí Bastya… - hắn ngập ngừng – Tôi thành thật với đồng chí là… về mặt chính trị tư tưởng… tôi chỉ là một người canh đê bình thường...
- Magát már láttam valahol... - fürkészi az arcát a tábornok. - Hình như tôi đã nhìn thấy anh ở đâu rồi… - vị tướng nhìn chằm chằm vào mặt hắn.
- Hogyne... - mondja Pelikán szelíden. -Először az uszodában, aztán le tetszett csukatni, aztán a Vidám Parkban, ezután is le tetszett csukatni, utána a Narancsligetben, ezután ki tetszett tüntetni. De nekem van valami rossz érzésem... Én tanú sem akartam lenni. - Đúng thế ạ… - Pelikan khiêm tốn trả lời. - Đầu tiên là ở bể bơi, sau đó đồng chí cho vào tù ạ, sau đó là ở Công viên Vui, và đồng chí lại cho vào tù ạ, rồi sau đó là ở Viện cam, ở đó đồng chí cho đứng lên nhận huân chương ạ. Nhưng tôi thấy có gì không ổn… Tôi thật tình không muốn làm chứng.
- Nem akart? - döbben meg Bástya elvtárs. - Hát akkor hogy kerül ide? - Không muốn à?! - đồng chí Bastya sửng sốt. - Thế tại sao anh lại ở đây?
- Magam sem tudom. Nekem most kint kellene lennem a gáton. Mint gátőrnek. - Ngay cả tôi cũng không biết ạ. Giờ này đáng nhẽ tôi phải có mặt trên đê cơ ạ.
Bástya buldogarca egészen elsötétül. Đồng chí Bastya tối sầm mặt.
- Virág! Ez így nincs jói. Nekünk önkéntes tanúk kellenek. Érti? - Megsemmisítő a tekintete. - Anh Virag! Thế này thì không được. Chúng ta cần những nhân chứng hoàn toàn tự nguyện. Anh hiểu chưa? - Cặp mắt ông ta tưởng như thiêu cháy kẻ đứng trước mặt.
Tussiriger kétségbe van esve, Virág teljesen összeomlott. Tussinger hoảng loạn cuống cuồng còn đồng chí Virag thì sụp đổ hoàn toàn.
Az író majdnem sírva mutat a kéziratkötegre: - Most dobjam el az egészet? Gã nhà văn tay chỉ vào bản thảo nói gần như khóc: - Giờ vứt hết cả đi sao?
Bástya elvtárs hajthatatlan. Đồng chí Bastya sắt đá.
- Nem érdekel. Tanú-ügyben nem tréfálok. Végeztem! - Tôi không cần biết. Trong chuyện nhân chứng tôi không đùa. Hết!
És két hadsegéde kíséretében elvonul. Dứt lời đồng chí cùng hai sĩ quan trợ lý đi thẳng.
Szörnyű letörtség lesz úrrá az ottmaradottakon. Virág percek alatt éveket öregedett. Tussinger a kéziratát lapozgatja: Cả ba người còn lại đều rã rời. Đồng chí Virag tưởng chừng già đi mấy tuổi còn gã nhà văn thờ thẫn lật mấy trang bản thảo:
- Most dobjam el az egészet? - Chả nhẽ vứt cả đi sao?
Virág nem felel, magába roskadtan ül. Lassan feláll, megöleli Tussingert. Mint aki nagyon hosszú útra készül. Đồng chí Virag ngồi rũ không trả lời. Lát sau đồng chí từ từ đứng dậy ôm vai gã nhà văn như một người sắp đi xa, rất xa.
- Szervusz, Bélám! - Chào cậu.
Az rémülten néz rá. Người kia hoảng hốt nhìn bạn.
- Csak nem? Itt hagysz minket? - Cậu định thật đấy à? Cậu hãy nghĩ lại đi.
Virág lehajtja a fejét, széttárja a karját, aztán elindul lefelé a lépcsőn. Đồng chí Virag cúi đầu giang tay vô vọng rồi chậm chạp bước xuống bậc thang.
Pelikánnal nem törődik senki. A gátőr mintha mély álomból ébredne, ijedten ugrik fel. Lúc này không ai để ý đến Pelikan cả. Gã canh đê dường như chợt bừng tỉnh, hắn giật mình bật dậy.
- Engem ne tessék itthagyni! - Ấy, đợi tôi với!
És rohan Virág után, beül mellé a fekete autóba. Hắn cắm cổ chạy ra rồi nhảy lên trên chiếc xe đen ngồi xuống cạnh đồng chí Virag.
- A temetőbe! - hallja a sofőrnek adott parancsot. Ettől nagyon furdalni kezdi a lelkiismeret. - Đến nghĩa trang! - Hắn nghe thấy tiếng đồng chí Virag ra lệnh cho lái xe và càng ngày càng cảm thấy lương tâm dằn vặt.
- Virág elvtárs ... én igazán nem akartam ... én nem akartam semmi rosszat. De amaz csak szomorúan mered maga elé. - Thưa đồng chí… Tôi thật tình không chủ tâm… tôi quả là không muốn gây chuyện… Nhưng đồng chí Virag chỉ đờ đẫn nhìn trân trân ra trước mặt.
- Higgye el, én nem akartam eláztatni Bástya elvtárs előtt... - folytatja Pelikán a mentegetőzést. - Tôi thề với đồng chí là tôi không có ý định làm mất thể diện đồng chí trước mặt đồng chí Bastya… - Pelikan tiếp tục phân trần.
De Virág elvtársat nem lehet búskomorságából kizökkenteni. Hóna alól kiveszi a pisztolyát, felhúzza. Belenéz a csövébe. Thế nhưng không có gì có thể làm đồng chí Virag bỏ dở cơn ảo não của mình. Đồng chí rút khẩu súng lục đeo dưới nách ra lên đạn, rồi ghé mắt nhìn vào họng súng.
(còn tiếp) vnkatonak.com (AK_63)

Friday, June 11, 2021

A TANÚ - NHÂN CHỨNG. Song ngữ Hung Việt. Chương XI.

26/01/2010

Không có gì là không thể. Tình tiết câu chuyện trong chương đọc cứ như chuyện cười, nhưng mà có thể là thật ở cái thời mà người ta dùng lý trí để điều khiển sự việc. Kiểu như: “ở một xã hội tươi đẹp thì làm gì có gái điếm, làm gì có ăn mày...”, đấy chẳng qua là mấy người phụ nữ hư hỏng, mấy người lười lao động...

Rồi còn nhiều cái nữa. Nghe cứ như tưởng tượng, chuyện đùa... nhưng mà có thể là thật đấy.


AZ ÉLET NEM EGY HABOS TORTA

Chương XI: ĐỜI ĐÂU PHẢI LÀ CÁI BÁNH GA-TÔ

Mikor hazaér, a gyerekek már javában alszanak. Levetkőzik, aludni készül, az ágy szélére ül. De nem álmos. Tenyerére veszi a Virág elvtárstól kapott minyont, nézi, mint Hamlet* azt a bizonyos koponyát és morfondírozik. Khi Pelikan về đến nhà, bọn trẻ đã ngủ cả. Hắn thay quần áo chuẩn bị đi ngủ nhưng vẫn ngồi ở mép giường. Hắn chẳng buồn ngủ tí nào. Hắn nhìn cái bánh ngọt nhỏ đồng chí Virag cho trong lòng bàn tay y như Hăm-lét nhìn cái xương sọ thủa nào và căng óc suy nghĩ
- Az a gyanús, ami nem gyanús... ami nem gyanús, az a gyanús... Nem értem... Minden gyanús... semmi sem gyanús ... Nem megy a fejembe... nem megy a fejembe... - Cái đáng nghi là cái không khả nghi...cái không khả nghi mới là cái đáng nghi... Thế nào nhỉ?... Mọi thứ đều khả nghi... Không có gì là khả nghi...Không thể hiểu được...Mình chả hiểu cái quái gì hết...
Gizi lánya felül a díványon, csodálkozva nézi az apját. Con Gizi đang nằm trong chiếc đi-văng ngồi dậy ngạc nhiên nhìn bố.
- Mi baj, apuka? - Có gì đấy hả bố?
- Nem megy a fejembe! - Öklével a homlokára ver. - Hát ennyire hülye lennék? - Tao không hiểu nổi! - Hắn đấm tay lên trán. - Có thật là tao ngu đến mức này không?
- Ki mondta ezt, apuka? - Sao bố lại nghĩ thế?
- Merthogy Dániel mindent bevallott - mondja ki Pelikán. A lány erre megrémül. - Vì họ nói là Daniel đã thú nhận hết - Pelikan trả lời. Con Gizi bỗng hoảng hồn.
- Igazán mindent? - Chú ấy thú nhận hết à?
Apja csüggedten lehajtja a fejét. Bố nó rũ đầu xuống.
- Mindent. Benne is csalódni kellett. - Tất tật. Phụ nhau quá.
- A piszok! - tör ki hirtelen Gizi. - Pedig megígérte, hogy nem szól senkinek. Pelikán elhűlten fölnéz: - Thằng khốn! - Con Gizi bật nói. - Thế mà hắn hứa là sẽ giữ kín không cho ai biết. Pelikan mặt nhợt nhạt nhìn con:
- Szent isten! Hát te is benne voltál? - Trời đất! Mày cũng dính vào đây hay sao con?
- Így is lehet mondani - mondja Gizi pirulva, és szipogni kezd. - Minden férfi egyforma. - S az apjához búvik. - Cũng có thể nói là thế - Con Gizi đỏ mặt sụt xịt. - Thằng đàn ông nào cũng một giuộc cả. - Rồi nó nép vào bố.
Az a tenyerébe fogja a síró lány arcát. Bố nó nâng khuôn mặt đẫm nước mắt của con gái nói:
- Most már mindent valljál be apádnak! Mit csináltál te Dániellel? - Giờ mày phải thú hết cho tao! Mày làm gì với nó?
- Hát azt - feleli a lány lakonikusan. - Con ấy với hắn - Nó trả lời
- Mit? - Ấy cái gì?
- Hát mit tud egy férfi egy lánnyal csinálni? - Thì đàn ông biết làm gì ngoài cái ấy với đàn bà?
Ezt még kapiskálja az apja, de ettől csak homályosabb az egész. Ông bố ngẫm nghĩ câu trả lời của con, nhưng càng nghĩ càng thấy khó hiểu thêm.
- Mondj el szépen mindent, elejétől a végéig. Hol kerültél össze azzal az átkozottal? - Từ từ đã! Mày nói lại rành mạch từ đầu đến cuối cho tao nghe. Mày dính với thằng khốn nạn đó ở đâu?
- Itt a vendégszobában. - Ngay ở buồng khách kia.
- Mikor? - Khi nào?
- Mikor utoljára itt járt. - Khi hắn đến đây lần cuối.
- Akkor bent feküdt az ágyban! - Nhưng lúc đó nó nằm trong giường cơ mà!
- Én is bent feküdtem. - Cả con cũng nằm ở đấy.
- Fekve beszéltétek meg a dolgokat? - Chúng mày vừa nằm vừa bàn âm mưu với nhau à?
- Nem beszéltünk mi meg semmit. - Không, không bàn bạc chuyện gì cả.
- Hát mit csináltatok? - Thế chúng mày làm gì?
- Ejnye, apuka - veszti el Gizi a türelmét. - Ő vacogott a dunyha alatt, én megsajnáltam, melegítettem, dörzsölgettem. a végén hozzábújtam. Alig fejeztük be, jöttek a rendőrök. - Ôi bố ơi - Con Gizi không còn kiên nhẫn được nữa. - Hắn nằm trong chăn run lập cập, con thương mới ủ ấm, xoa bóp cho hắn rồi cuối cùng con chui vào nằm cùng cho hắn đỡ lạnh. Vừa mới xong thì mấy anh công an đến.
Pelikánnak most gyúl fény az agyában. Trong đầu Pelikan đã thấy tia sáng lờ mờ.
- Szóval csak ez volt, semmi több? - Thế nghĩa là chỉ có chuyện ấy thôi chứ không có gì khác phải không?!
Gizi felkapja a kezét, mert a pofónt várja. De az most meglepetésére elmarad. Con Gizi giơ tay lên đỡ vì tưởng bố đánh, nhưng bất ngờ thay bố nó vẫn ngồi im.
- Nem volt neked semmi gyanús ezen a Dánielen? - Mày không thấy thằng Daniel này có gì khả nghi à?
- Nekem semmi. Úgy tudtam, nőtlen. - Con không thấy có gì khả nghi cả. Như con biết hắn vẫn còn chưa vợ.
Pelikán nagyot sóhajt, legyint. Pelikan thở sượt, phảy tay.
- Persze az, hogy nem gyanús, az a leggyanúsabb... - Không thấy có gì khả nghi…Con ơi, đấy mới chính là cái nghi ngờ nhất...
Gizi nézi az apját. Sehogy se érti. Pelikánnak a minyonra téved a tekintete. Odaadja Gizinek. Con Gizi nhìn bố nó chẳng hiểu gì cả. Pelikan chợt nhìn thấy chiếc bánh ngọt. Hắn cầm lấy đưa cho con.
- Edd meg. Minyon. - Ăn đi, bánh ngọt đấy.
Gizi megeszi a minyont, és visszafekszik a díványra. Con Gizi ăn bánh rồi quay lại ghế đi-văng ngủ.
Pelikán cigarettára gyújt. Tovább topreng. Egyre kevésbé érti az egészet. Befekszik a dunyha alá, a plafont nézi. Lassan elalszik, de álmában is csak kémeket lát, akik egyáltalán nem gyanúsak. A cigaretta viszont tovább ég a szájában. Pelikan châm thuốc rồi chậm rãi suy nghĩ tiếp. Càng nghĩ hắn thấy sự việc càng khó hiểu. Hắn kéo chăn lên bụng rồi nằm nhìn trần nhà. Thế rồi hắn thiếp đi. Trong cơn mơ hắn thấy chỉ toàn gián điệp, nhưng chúng trông không khả nghi chút nào. Điếu thuốc trong lúc đó vẫn cháy trên mép hắn.
Mikor aztán kiesik a szájából, előbb a dunyha ég ki, aztán a matrac gyúl meg. Az alvó sűrű füstre ébred. Điếu thuốc rơi xuông chăn làm cái chăn bén lửa. Rồi đệm nằm cũng cháy. Pelikan choàng dậy trong khói lửa mù mịt.
Kiugrik az ágyból, riasztja a gyerekeit. Viaskodik a lángokkal, de nem sok eredménnyel. Elszalajtja Pistit a tűzoltókért. Azok nem jönnek. A ház reggelre porig ég. Hắn nhảy vội ra khỏi giường đánh thức lũ trẻ. Hắn ra sức dập lửa nhưng chẳng ăn thua gì nên vội vàng bảo thằng Pisti chạy đi báo cứu hoả.
Kora délelőtt nagy fekete autó gördül az üszkös romok mellé. Virág elvtárs ugrik ki belőle, mellette a két fia, nyakában fényképezőgéppel. Nhưng đội cứu hoả không thấy đến. Sáng ra thì cả nhà đã cháy rụi. Sáng hôm sau một chiếc xe hòm đen từ từ lăn bánh đến bên đống tro tàn. Từ trong xe đồng chí Virag nhảy ra cùng với hai con trai cổ đeo máy ảnh.
- Hallottam, mi történt - siet oda mély részvéttel a megszenesedett gerendákon kuporgó Pelikánhoz, és keményen megszorítja a kezét. - Látja, Pelikán elvtárs: az osztályharc élesedik. A ház porig égett. Ezen kár lenne vitát nyitni. De vajon véletlen-e, hogy porig égett? - Tôi nghe có chuyện xảy ra - đồng chí bước vội vã đến chia buồn với Pelikan đang ngồi trên đống than nghi ngút khói rồi xiết chặt tay hắn. - Đồng chí thấy không: cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng quyết liệt. Nhà thành than rồi, cái này khỏi tranh luận. Nhưng có phải tự nhiên cháy hay không?
Pelikán megrándul. Pelikan chau mày.
- Biztos, hogy nem véletlen - feleli Pelikán élesen. - A tűzoltók nem jöttek. - Chắc chắn không phải tự nhiên cháy - hắn bức xúc - Cứu hoả gọi nhưng biệt tăm không đến.
- Szegény barátom - fogja át a vállát Virág. - Tönkrementek az idegei. De ne felejtse el: az élet nem egy habos torta. Szedje össze magát. Csapásokat adunk, csapásokat kapunk. - Tội nghiệp - đồng chí Virag ôm vai hắn. - Thần kinh đồng chí không chịu được rồi. Nhưng không bao giờ được quên là đời đâu phải là cái bánh ga-tô. Hãy cứng cỏi lên để ăn miếng trả miếng với quân thù.
A mezőn át most érkezik szirénázva a tűzoltóautó. A tűzoltók leugranak, Csetneki, a daliás tűzoltóparancsnok, akit a Duna-parti halászcsárdában már megismertünk, sűrűn osztogatja a vezényszavakat. A tűzoltók nagy buzgalommal kezdik locsolni a megszenesedett romokat. Từ đằng xa chiếc ô tô cứu hoả rú còi tiến lại. Lính cứu hoả nhảy lục tục xuống xe. Đội trưởng cứu hoả Csetneki to cao mà ta đã có dịp làm quen ở quán bên bờ sông Đu-na luôn mồm ra lệnh. Đám lính cứu hoả hăng hái phun nước vào đống tro than nghi ngút khói.
Pelikán keserűen nézi ezt a lázas semmittevést, aztán odafordul Virághoz. Pelikan cay đắng nhìn cảnh nhộn nhạo vô nghĩa này rồi quay sang đồng chí Virag.
- Nagyon csodálkozna, Virág elvtárs, ha azt mondanám, hogy ez a tűzoltóparancsnok egy utolsó, nyilas, szabotáló briganti? - Nếu tôi bảo thằng đội trưởng đội cứu hoả này là một thằng phát xít đê tiện, một tên phản động phá hoại nguy hiểm thì đồng chí bảo sao?
A kérdezett meghökken, aztán elgondolkodik. Đồng chí Virag sững người, nhưng rồi nhanh chóng chuyển sang suy nghĩ.
- Megvizsgáljuk az ügyet - mondja komoran. - Ta sẽ kiểm tra vụ việc này - Đồng chí nghiêm nghị nói.
Odarendeli magához Csetnekit, a tűzoltóparancsnokot. Rồi đồng chí vẫy tay gọi đội trưởng đội cứu hoả Csetneki đến.
- Arra feleljen az elvtárs, hogy is volt ezzel a tűzzel - Đồng chí hãy giải thích cho tôi vụ cháy này là thế nào?
A parancsnok tiszteleg, aztán ezt mondja. Đội trưởng cứu hoả đứng nghiêm chào rồi báo cáo.
- Tisztelettel jelentem: az éberség az első. Sok bejelentés érkezik, hogy itt is tűz, van, ott is tűz van. Elébb meg kell állapítani, ki kell vizsgálni. Ehhez idő kell - fejezi be önérzetesen. - Báo cáo đồng chí, cảnh giác là trên hết ạ. Có nhiều tin báo lửa chỗ này, rồi lửa chỗ kia. Do đó cần phải kiểm tra xác định rõ ràng. Việc này tất nhiên phải cần có thời gian. - Hắn kết thúc với chút tự ái nghề nghiệp.
- Ez igaz - állapítja meg Virág. - Dolgozzon tovább. Elengedi a parancsnokot - Đúng thế - đồng chí Virag gật gù rồi ra hiệu cho gã đội trưởng - Các anh tiếp tục thi hành nhiệm vụ.
Mély részvéttel nézi Pelikánt. Đồng chí thông cảm nhìn Pelikan.
- Szegény barátom. Valóban megsínylelték az idegei. De fel a fejjel. Ez a ház fel fog épülni. Szebb lesz, mint valaha. Legfelsőbb határ az ég! Tudja, ki mondta ezt? - Tội nghiệp đồng chí. Đúng là thần kinh không chịu được rồi. Nhưng không sao. Ngôi nhà này sẽ được xây lại to đẹp hơn, đàng hoàng hơn. Với chúng ta, trời xanh là giới hạn cuối cùng. Đồng chí có biết là ai nói không?
- Sejtem - bólint fanyarul Pelikán. - Tôi cũng đoán được là ai. - Pelikan chua chát trả lời.
Virág elvtárs állta a szavát: a gátőrház újjáépítését maga vezette. Most mutatkozott csak meg igazán, milyen sokoldalú a tehetsége. Ide-oda cikázott a terep és a főváros között, intézkedett, utasított, egyszerre több készüléken telefonált. Đồng chí Virag giữ đúng lời hứa: ông tự tay đứng ra điều hành công việc xây lại nhà cho tay canh đê. Ở đây ông đã chứng tỏ năng khiếu nhiều mặt của mình. Suốt ngày hết lên thủ đô lại về hiện trường để giải quyết, chỉ dẫn công việc, điện thoại liên tục trên mấy máy cùng một lúc.
A jó munkahangulat megteremtése érdekében személyesen, saját receptje szerint főzött gulyást egy hatalmas kondérban, az építők és a sajtó megjelent képviselői számára. Để phát động không khí lao động hăng say, tự tay đồng chí nấu một chảo lớn xúp thịt bò theo bí quyết riêng của mình cho các thành viên trong đội xây dựng và giới báo chí có mặt ở công trường.
Falazóversenyt szervezett az ország legjobb kőműveseinek részvételével, akiket olyan fantasztikus módon ragadott el a vetélkedés lendülete, hogy a végén Pelikán Józsefnek kellett odakiabálni: Một cuộc thi xây tường được tổ chức với sự tham gia của những thợ nề ưu tú nhất đất nước. Họ bị không khí thi đua sôi nổi lôi cuốn tới mức mà cuối cùng Pelikan phải kêu:
- Virág elvtárs, se ajtó, se ablak! - Đồng chí Virag ơi, sao lại kín mít chẳng có cửa sổ, cửa ra vào gì thế này?
A fal viszont vidáman nyújtózott a magasba, a fent lebegő transzparensig, amelyen ez a mondat állt: Thế nhưng bức tường vẫn vươn cao kiêu hãnh dưới băng khẩu hiệu:
Legfelső határ az ég! "Trời xanh là giới hạn cuối cùng!"
(còn tiếp) vnkatonak.com (AK_63)

Saturday, June 5, 2021

A TANÚ - NHÂN CHỨNG. Song ngữ Hung Việt. Chương X.

05/06/2009

Đến chương này, cái tên của câu chuyện mới được nhắc đến “nhân chứng”. Ý là tổ chức yêu cầu Pelikán làm chứng cho những sự kiện đã được xẩy ra trước đây như là một trong những bằng chứng cho tội phản bội, gián điệp, chỉ điểm... của bè lũ Daniel Zoli.

Tất nhiên là những gì đã xẩy ra với người bạn của Pelikán –ngài bộ trưởng, Daniel Zoli- chẳng làm cho ai có thể nghi ngờ, chứ đừng nói đến bạn của ông. Nhưng mà tổ chức cho là thế. Và một khi tổ chức đã cho là thế thì có chạy đường trời. Kể cả một thằng đểu giả mà nhân danh tổ chức thì cũng khó lòng mà thay đổi được cục diện. Chỉ có lịch sử mới có thể chứng minh được đúng sai. Mà chờ cho lịch sử minh chứng thì đương sự đã chết cả rồi.

Ngày xưa, hồi những năm 80, ở ta có tiểu thuyết “Chuyện thường ngày ở Huyện”. Tay gì đó ghi chép tất cả các sự kiện xẩy ra với người nọ, người kia (những người là đối thủ chính trị của hắn). Rồi gán ghép vào đó những tội danh mà hắn có thể nghĩ ra được... nhằm chiến đấu cho sự thăng tiến và giữ vững vị trí của hắn. Đã bao người chân chính bị vùi dập bởi âm mưu của kẻ kia? Mãi rồi người ta mới nhận ra chân tướng của hắn...

Câu chuyện này kể về xã hội một thời của Hungary, ở cách xa ta tới hàng ngày bay, 15 ngày tầu hoả... mà cứ như kể về chính ta vậy.


AZ A GYANÚS, AMI NEM GYANÚS

Chương X: CÁI KHÔNG KHẢ NGHI MỚI KHẢ NGHI

De most nem várja Pelikánt semmiféle vacsora. Virág elvtárs dolgozószobájába vezeti be Gogolák elvtársnő, aki háttal ül egy varrógép előtt, és serényen dolgozik. Egy pantallót gépel. Mellette próbababa, azon egy félig kész zakó. Nhưng bây giờ không có tiệc tùng gì đợi Pelikan cả. Nữ đồng chí Gogolak dẫn hắn vào phòng làm việc của đồng chí Virag. Trong phòng đồng chí đang ngồi quay lưng ra ngoài miệt mài đạp máy khâu. Đồng chí đang may một cái quần. Bên cạnh đó là một hình nộm mẫu khoác một chiếc áo gần xong.
Virág elvtárs nem vesz tudomást a belépő Pelikánról, a gátőr nem tudja, mit csináljon, csak áll, köhint, várja, hogy észrevegyék. Đồng chí không để ý gì đến Pelikan vừa bước vào. Hắn không biết làm gì chỉ đứng rồi hắng giọng cho người kia thấy.
Aztán leül egy bőrfotelbe. Sau đó hắn ngồi xuống chiếc bành bọc da.
Zümmög a varrógép az éjszakai csendben, Pelikán szorongva ül. Tiếng máy may chạy xành xạch trong cảnh đêm tĩnh mịch. Pelikan lòng dạ lo lắng ngồi chờ.
Hirtelen megfordul Virág. Đột nhiên đồng chí Virag quay ra hắn.
- Mi újság, Pelikán? - Có gì mới không đồng chí?
A várakozásban elgyötört Pelikán összerezzen. Pelikan đang khốn khổ vì đợi giật mình.
- Én tudjam? - kérdi nekikeseredve. - Tôi thì làm sao mà biết được. - hắn chua chát nói.
Virág újra a gép alá igazítja a félig kész pantallót, gépel egy sort, elharapja a cérnát. Aztán feláll, futó pillantást vet a vendégére, odamegy a próbababához, megsimítja rajta a zakót, mély lélegzetet vesz, és ezt mondja: Đồng chí Virag lại lúi húi may tiếp chiếc quần đã gần xong. Cuối cùng ông ghé răng cắn chỉ rồi đứng dậy liếc nhìn khách. Ông bước tới hình nộm vuốt nhẹ cho phẳng chiếc áo khoác trên đó, hít một hơi dài rồi nói:
- Az egyik szemem sír, a másik szemem nevet. -Jelentőségteljesen néz. -Tudja, mire gondolok?! - Đúng là nửa khóc nửa cười. – Cái nhìn của ông giờ rất trọng đại. – Đồng chí biết là tôi đang nghĩ gì không?!
- Fogalmam sincs, mire tetszik gondolni - mondja Pelikán egyszerűen. - Tôi hoàn toàn không biết đồng chí nghĩ gì – Pelikan thành thật trả lời.
- Az osztályharc élesedik, a nemzetközi helyzet egyre fokozódik, de mi nem alszunk. A belső árulók egy újabb bandájára csaptunk le: Dánielre és bandájára. - Cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng quyết liệt, tình hình thế giới hiện nay đang lên mạnh, nhưng ta luôn cảnh giác. Một bè lũ phản động mới vừa bị vạch trần: Daniel và đồng bọn.
- Milyen Dánielre? - kérdi Pelikán. - Daniel nào cơ ạ? – Pelikan hỏi.
- Dániel Zoltán volt miniszter - emeli fel a hangját Virág. - Maga is ismeri. - Daniel Zoltan cựu bộ trưởng - Đồng chí Virag cao giọng. – anh cũng quen hắn.
- Hát persze hogy ismerem. Dániel Zoli bandája... Ez jó! Pelikán úgy nevet, hogy a könnye kicsordul. - À, tất nhiên là tôi quen rồi. Bè lũ Daniel … hay quá! – Pelikan cười chảy cả nước mắt.
Virág elvtárs szeme szikrát hány. Đồng chí Virag mắt toé lửa:
- Mit nevet, maga szerencsétlen? - Anh cười cái gì? Tưởng hay lắm đấy hả?
Amaz már a combját is csapkodja Hắn vừa ôm bụng cười vừa trả lời:
- Ezen az egészen! Hogy van ideje az elvtársaknak tréfára! - Tôi cười vì đồng chí hài hước quá
- Ez nem tréfa! - ripakodik rá Virág a röhögőre. - Dániel Zoltán áruló, kém és rendőrspicli. Elég nagy szégyen, hogy mostanáig kijátszotta az éberségünket... - Đây không phải là trò hài! - Đồng chí sẵng giọng gần như quát. – Daniel Zoltan là một kẻ phản bội, là gián điệp, là chỉ điểm. Mất cảnh giác cho tới tận bây giờ mới phát hiện ra thật đáng hổ thẹn …
A röhögés elhal, a vendég a füle tövét vakarja. Pelikan hết cười gãi tai.
- Lehet, hagy én hülye vagyok, de nem hiszem el. Én ismerem Dániel Zolit. - Tôi có thể là ngu thật, nhưng tôi không thể tin được chuyện này. Tôi biết rất rõ Daniel Zoli.
- Ismeri? Hát az mit számít? - bűvöli Virág, az arcához hajolva. - Még saját magát sem ismeri igazán! És ha én azt mondom, hogy Dániel már mindent bevallott? - Anh biết rõ lắm à? Biết cái quái gì. - Đồng chí nhìn chằm chằm vào mặt hắn. – Ngay cả bản thân anh còn chưa chắc đã biết! Nếu tôi bảo là Daniel đã khai hết tất cả rồi thì anh nghĩ sao?
Ez meghökkentő. Câu này khiến hắn bàng hoàng.
- Bevallott?! Ő? Mindent bevallott? Ez lehetetlen. Ezt én nem tudom felfogni. - Khai hết tất cả ạ?! Anh ấy ạ? Khai hết cả ạ? Ồ không! Điều này không thể tưởng tượng nổi. Tôi hoàn toàn không thể hiểu nổi.
- Hát csak szokjon hozzá - egyenesedik föl szemközt vele Virág. Szinte szótagolva mondja: - Maga lesz a koronatanú. - Ừ thì cứ dần dần tập hiểu đi là vừa. - Đồng chí Virag từ từ nhìn thẳng vào mắt hắn nói giằn từng tiếng một: - Đồng chí sẽ là nhân chứng chính.
- Én? - szalad ki a vér Pelikán fejéből. - Mire, az istenért? - Tôi ấy à? - Hắn giãy nảy. – Làm chứng cái gì cơ chứ hả trời?
- Amiről az előbb beszéltem. Ne, ne ijedjen meg. Szedje össze a gondolatait. Segítsen nekünk! - Đồng chí làm chứng những điều tôi vừa nói. Đừng có sợ! Đồng chí cứ bình tĩnh nghĩ cho kỹ rồi giúp tổ chức!
- Nekem nincsenek gondolataim – dadogja Pelikán. - Én ilyesfajta dolgokban teljesen járatlan vagyok. - Tôi chẳng có suy nghĩ gì cả. - Hắn lắp bắp. - Những chuyện này tôi ù ờ lắm.
Virág átfogja a vállát. Barátságosabb hangra vált. Đồng chí Virag ôm vai hắn chuyển sang giọng thân tình
- No. Abból kell kiindulni, hogy Dániel kém, áruló és rendőrspicli. Ebből a nézőpontból sem talál semmi gyanúsat a viselkedésében? Pelikán erőlködve gondolkodik. - Không sao. Nếu ta chọn xuất phát điểm là Daniel là kẻ phản bội, là gián điệp, là chỉ điểm thì đồng chí vẫn không thấy điều gì khả nghi ở hắn sao? Pelikan vò đầu bứt tai suy nghĩ.
- Ha megfeszítenek se! - mondja végül. Könyörögve néz: - Nem lehetne mégis egy képzettebb elvtársat? - Có chặt đầu thì tôi cũng chịu! - Hắn nói rồi van nài nhìn sang: - Chả nhẽ không kiếm được đồng chí nào có trình độ hơn tôi hay sao ạ?
- Szó sincs róla - keményszik meg újra Virág hangja. - Gondolkozzék csak: mi történt, mikor utoljára kint járt magánál a Dunán? - Không được. - Giọng đồng chí Virag trở lại nghiêm khắc. - Đồng chí nhớ lại xem là chuyện gì xảy ra khi hắn ra chỗ đồng chí lần cuối ở sông Đu-na?
- Semmi kérem. - Thật là không có gì ạ.
- Valami csak történt?- csattan fel Virág. - Ít nhất cũng phải có gì xảy ra chứ? - Đồng chí Virag gợi ý.
- Hát, ő horgátszott.. . - emlékszik hangosan Pelikán -, aztán ürgét öntöttünk kettesben, aztán ő beesett a vízbe, aztán én kihúztam, aztán ő megesketett, hogy nehogy elmondjam valakinek, hogy elszalasztott egy kapitális harcsát... - Ờ, anh ấy ra câu cá…- Pelikan cao giọng suy nghĩ – sau đó chúng tôi đổ chuột đồng với nhau, sau đó anh ấy ngã xuống nước, sau đó tôi kéo anh ấy lên bờ, sau đó anh ấy bắt tôi phải thề là không được lộ cho ai biết là anh ấy để xổng một con cá nheo lớn…
- Olyan biztos, hogy harcsa volt az? - szól közbe Virág elvtárs metsző gúnnyal. - Có chắc là cá nheo không? - Đồng chí Virag nói chen vào giọng giễu cợt.
A gátőr elbizonytalanodik. Gã canh đê bối rối.
- Miért? Mi lehetett még? - Sao cơ ạ? Nếu không phải là cá nheo thì là cái gì ạ?
- Sok minden. - Ez sokat sejtet. - Na, folytassa csak... - Bất cứ cái gì. – Câu nói khiến ai cũng phải suy nghĩ. – Nào thôi, cứ tiếp tục đi…
- Aztán mivel csuromvíz volt, száraz ruhát adtam neki, és befektettem a vendégszobába... - Sau đó tôi đưa quần áo khô để anh ấy thay vì anh ấy ướt từ đầu đến chân. Sau đó tôi để anh ấy nằm trong buồng khách…
- Elég - állítja meg Virág. - Nem talál semmi gyanúsat az eddigi mozzanatokban? Csodálkozó két szempár néz vissza rá: - Khoan đã! - đồng chí Virag ngắt lời hắn. - Đồng chí không thấy có gì khả nghi trong những sự kiện vừa kể sao? Hắn tròn mắt nhìn.
- Nem... - Không ạ…
Mire Virág diadalmasan kivágja: Lập tức đồng chí Virag đắc thắng tuyên bố:
- Erről van szó! A kémek sohasem dolgoznak úgy, hogy gyanút keltsenek. Épp ellenkezőleg. De épp az bennük a gyanús, hogy nem gyanúsak. Érti már, Pelikán? - Chính thế! Bọn gián điệp có bao giờ muốn để lộ ra các hành tung mờ ám của chúng đâu. Thậm chí chúng giữ rất kín. Chính vì thế nên chúng rất khả nghi ở chỗ chúng hoàn toàn không khả nghi. Đồng chí đã hiểu chưa?
A másik óriási erőfeszítéssel próbálja követni ezt a gondolatmenetet Pelikan cố động não tìm cách nắm phương thức lập luận này.
- Nem értem. Azt tetszik mondani, hogy az a gyanús benne, hogy nem gyanús. - Tôi không hiểu tại sao lại khả nghi ở chỗ hoàn toàn không khả nghi.
- Erről van szó - mondja mosolyogva Virág. - Chính thế - đồng chí Virag mỉm cười nói.
Pelikán agyában őrölnek a nehéz malomkerekek. Bộ máy trong đầu hắn đã hoạt động hết cỡ mà vẫn không ăn thua gì.
- De hát én se vagyok gyanús, és mégse vagyok kém... - mondja tétován. - Tôi cũng chẳng khả nghi, nhưng tôi có là gián điệp đâu…- hắn ngập ngừng nói.
- Honnan tudja? - csap le rá Virág. - Làm sao đồng chí biết được? - đồng chí Virag bồi cho hắn một nhát.
Pelikán kétségbeesetten körülnéz. Pelikán hoảng hốt nhìn quanh.
- Lehetséges, hogy én kém vagyok? - Có thể tôi là gián điệp sao?
- Minden lehetséges - mondja Virág keményen. - Magából még sok minden lehet, Pelikán, ha nem áll keményen a lábán. - Bất kỳ điều gì đều có thể cả - đồng chí Virag nói không khoan nhượng. - Người như anh có thể sẽ biến chất, nếu như không trụ lại được trên cương vị của mình.
- Értem - mondja amaz elgondolkodva. Aztán elszántan feláll. - De tessék engem kihagyni ebbó1, Virág elvtárs. - Tôi hiểu rồi – Pelikan trầm ngâm nói rồi đứng dậy. – Nhưng xin đồng chí đừng bắt tôi tham dự cái vụ này.
Farkasszemet néznek. Virág elvtárs bólint. Hai cặp mắt nhìn thẳng vào nhau hồi lâu. Cuối cùng đồng chí Virag khẽ gật đầu.
- Kérem - mondja, és kimegy a szobából. - Được thôi - Đồng chí nói rồi bỏ ra ngoài.
Pelikán egyedül marad. Dermesztően egyedül. A varrógépet nézi, a fej nélküli próbabábut, körös-körül a sok könyvet. Leül a bőrfotelbe, összehúzza magát, vár. Egyszerre nyikorgást hall. Az egyik, padlótól plafonig érő könyvespolc lassan elfordul. Mögüle a sötétből nesztelen léptekkel ismeretlen férfiak lépnek be a szobába. Chỉ còn một mình Pelikan ở trong phòng, hoàn toàn cô đơn rùng rợn. Hắn đưa mắt nhìn từ chiếc máy khâu, hình nộm thử quần áo, rồi đến sách để đầy trong phòng. Hắn ngồi xuống chiếc ghế bành bọc da thu lu đợi. Rồi hắn nghe có tiếng cót két. Một giá sách cao đến tận trần nhà từ từ quay sang một bên. Từ khoảng tối phía sau mấy người đàn ông lạ mặt lướt vào.
Pelikán még jobban összehúzza magát a fotelban. A titokzatos férfiak nem vesznek róla tudornást, tesznek-vesznek körülötte, az egyik éppen az orra előtt csattintja fel az öngyújtóját és ad tüzet a kollégájának. Pelikan co rúm mình lại trong chiếc ghế bành. Những người đàn ông bí ẩn không thèm để ý đến hắn mà chỉ quanh quẩn trong phòng. Một người trong bọn bật lửa châm thuốc lá cho bạn gần như sát mũi hắn.
Pelikán riadtan ül. Különben csend vain. Most Virág elvtárs lép be a szobába, a kezében tálca, rajta egy csomó cukrászsütemény. Az arcán nyájas mosoly. Leteszi a tálcát Pelikán elé, és csak ennyit mond: Pelikan ngồi mà rợn hết cả người. Trong phòng hoàn toàn im lặng. Vừa lúc ấy, đồng chí Virag bưng một khay bánh ngọt tươi tỉnh bước vào. Đồng chí để chiếc khay trước mặt Pelikan nói:
- Minyon. - És a fejét csóválva, rosszal1óan néz a titokzatos férfiakra: - Mit molesztálják maguk Pelikán elvtársat? Ő a barátunk. Igaz, Pelikán elvtárs? - Bánh ngọt đây. - Rồi đồng chí quay sang những người đàn ông bí ẩn lắc đầu giọng bất bình: - Các anh sao lại dám hù doạ đồng chí Pelikan thế hả? Đồng chí ấy là người bạn tốt của chúng ta. Có phải không đồng chí Pelikan?
A gátőr bólint. Tay canh đê gật đầu.
A férfiak eltűnnek a rejtekajtón, a könyvszekrény nyikorogva visszafordul a helyére. Đám đàn ông biến mất trong bóng tối, giá sách lại cót két quay về chỗ cũ.
Virág kínálgatja az emberét. Đồng chí Virag mời khách.
- Vegyen már! - Ăn đi chứ!
És mivel az csak ül dermedten, kiválaszt néki egy csokoládés tátracsúcsot. Thấy hắn chỉ đờ người ngồi im, ông lấy một chiếc bánh sô-cô-la đưa cho hắn.
- Egyelőre nem kérünk mást magától, mint hogy szedje össze a gondolatait. - Trước mắt tổ chức chưa yêu cầu đồng chí gì khác, chỉ cần đồng chí sắp xếp lại những suy nghĩ của mình.
Pelikán feláll, tenyerében a csokoládés minyon. Pelikan tay cầm chiếc bánh ngọt đứng dậy.
- Össze fogom szedni, Virág elvtárs. De hadd menjek vissza a gátra. Minden pillanatban jöhet az árhullám. - Thưa đồng chí, tôi sẽ sắp xếp. Nhưng hãy để tôi quay lại đê, vì cơn lũ có thể đến bất kỳ lúc nào.
- Menjen csak vissza - nyitja ki előtte az ajtót Virág. - És ne féljen semmitől. Mi maga mögött állunk. És el ne felejtse: aki mibennünk nem bízik, az önmagában sem bízik, és aki a mi fényes jövőnkben nem bízik, az áruló. - Đồng chí cứ đi. – Ông mở cửa cho hắn. - Đừng sợ gì cả. Tổ chức luôn đứng cạnh đồng chí. Và đừng quên một điều: ai không tin tưởng ở tổ chức, người đó không tin vào chính bản thân mình, và người nào không tin tưởng vào tương lai huy hoàng của chúng ta, đó là kẻ phản bội.
- Köszönöm szépen - mondja Pelikán megrendülve, és a minyonnal a kezében kitámolyog az ajtón. - Rất cảm ơn đồng chí – Pelikan bàng hoàng lắp bắp. Tay cầm chiếc bánh ngọt hắn ngật ngưỡng bước ra cửa.
*** ***
(còn tiếp) vnkatonak.com (AK_63)