Thursday, April 1, 2021

A TANÚ - NHÂN CHỨNG. Song ngữ Hung Việt. Chương I/2.

26/09/2006

Sự thực là không mấy khi được đọc kịch bản phim! Xem ra nó chẳng khác gì mấy so với một tác phẩm văn học. Tóm lại, phần một cho người ta biết mua thịt phải có tem phiếu, có tem phiếu mà Nhà nước không có thịt bán thì cũng bằng không. Vì vậy anh chàng Pelikan đành phải giết con lợn mà mình đang nuôi trộm dưới hầm bí mật. Nhưng chuyện đâu có đơn giản vậy. Công an ập đến, truy tìm…

Khó khăn là vậy. Thịt không có, không có gì để mà tọng vào mồm, thịt con lợn nhà mình nuôi (nuôi trộm) mà phải giấu diếm như phạm tội. Nhưng câu chuyện sẽ còn tiếp diễn, ở đâu đó cũng trên đất nước Hungary, cũng vào thời kỳ đó, người ta không thiếu gì cao lương mỹ vị…

Ở Việt Nam, gần đây, mấy nhà lưu trữ, sưu tầm đã tổ chức triển lãm về thời kỳ bao cấp. Cảnh xếp hàng, cái xe đạp, các loại tem phiếu, sổ gạo… rồi loạt bài đăng trên tuoitre: trước đêm đổi mới. Tất cả mới chỉ như nhắc lại, kể lại… Còn lâu mới có giá trị lột tẩy như A TANÚ.

Xin mời anh chị em đọc tiếp.


Gizi szavát alig hallani: Gizi than khẽ:
- Szegény Dezső. - Tội nhiệp Thằng Béo.
- Meg kell halni neki - mondja ki az ítéletet Pelikán. - Nó phải chết thôi – Pelikan quyết định dứt khoát.
- Most? - Ngay bây giờ hả bố?
- Éjjel. - Không. Để đến đêm.
Sokára jön meg az este. Pelikán az üvegezett verandán ül, és várja, hogy gyűljön a sötét. A túlsó partról harangszót hoz a szél. Aztán csönd, és végre fekete éjszaka. Pelikán föláll, bemegy a konyhába, félretolja a kecskelábú asztalt. Felemeli az alatta lévő csapóajtót, az asztalról fölmarkol egy villogó kajla kést, és leereszkedik a pincébe. Gizi még utánaad egy nyugtalanul lobogó viharlámpát. Mà cũng còn lâu mới tối. Pelikan ngồi đợi ở sân hiên quây kính trước nhà. Từ phía bờ sông bên kia gió đưa sang vài tiếng chuông uể oải. Sau đó là hoàn toàn im lặng. Cuối cùng thì trời cũng tối mịt. Pelikan đứng dậy vào bếp và đẩy cái bàn nhỏ sang một bên. Hắn kéo cái nắp đậy dưới sàn lên, với tay lấy con dao bầu rồi leo xuống tầng hầm. Con Gizi vội vã đưa cho bố cái đèn bão với ngọn lửa còn đang run rẩy.
A gyerekeken fehér ing, a nyakukban piros és kék nyakkendő, aszerint, hogy kinek mi jár. Hét gyerek, fegyelmezett sorban. A csapóajtó felett állnak és fülelnek. Bọn trẻ giờ mặc áo sơ mi trắng quàng khăn đỏ hoặc xanh tuỳ theo là thiếu niên hay nhi đồng. Tất cả bảy đứa đứng nghiêm xếp hàng ngang. Chúng đứng ngay trên cái nắp đậy lối xuống tầng hầm và dỏng tai theo dõi.
Sokáig csend. Gizi beint a gyerekeknek, akik rázendítenek: Một lúc lâu không nghe thấy động tĩnh gì cả. Con Gizi bắt nhịp cho cả lũ đồng ca:
"Elvtárs, a csákdnyl jó mélyre vágd, "Đồng chí ơi, cuốc xẻng cầm cho chắc
Indul az ifjú munkásbrigád..." Xuất quân trong đội ngũ thanh niên…"
A pince mélyén a viharlámpa imbolygó fényében Pelikán Jóska Dezsővel, az illegálisan nevelt kan disznóval viaskodik. Dezső jó ösztönnel sejt valamit, páni félelemben röfögve hátrál a falhoz; a gátőr a kedvező pillanatot lesi, mikor feldöntheti vagy elgáncsolhatja. Persze nem tudni, ki fél jobban: Pelikán vagy a kandisznó. Botcsinálta a böllér, a történelem nyomta kezébe a kést. Mindegy: Dezsőnek meg kell halnia. Pelikán hirtelen mozdulattal egy zsákot vet a disznó fejére, elgáncsolja, de ő is elbotlik, hemperegnek a földön. Pelikán káromkodik, most már valóban dűhbe gurul, felemelkedik, és a rúgkapá1ó Dezső szívébe mártja a kést. Dưới tầng hầm trong ánh sáng rung rinh của cây đèn bão, Pelikan hì hụi với con lợn nuôi trộm. Nó hình như đoán ra có chuyện chẳng lành nên hồng hộc lùi vào tường. Gã canh đê thì đang đợi thời cơ để đè con lợn xuống. Dĩ nhiên là không biết ai sợ hơn ai: Pelikan hay là con lợn đực hơn tạ. Hắn chỉ là đồ tể bắt buộc, thời đại lịch sử đã trao sứ mệnh sắc nhọn này vào tay hắn. Thôi đành: Thằng Béo phải chết. Đột nhiên hắn chụp phắt cái bao tải lên đầu con lợn rồi vật nó ngã ra. Khốn thay, hắn cũng bị quá đà ngã theo con lợn, cả hai lăn lộn dưới đất. Hắn điên người chửi đổng chồm dậy rồi xọc con dao vào giữa tim Thằng Béo đang vùng vẫy.
Félelmes halálsikoly hallatszik fel a csapóajtó alól, de kint zeng a vidám induló. Tiếng rú giãy chết của con lợn vang lên từ dưới hầm không át được giọng lũ trẻ:
"Elvtárs, Sztálin nevével, "Đồng chí ơi, Xítalin gọi đó
munkára készen, indulj előre hát!" Sẵn sàng đi, làm bất cứ việc gì!"
Odalenn kinyúlik az illegálisan nevelt sertés, Pelikán megtörli izzadt homlokát. Dưới hầm con lợn lậu đã thẳng cẳng. Pelikan lau mồ hôi trán.
Fent pedig két rendőr zörgeti, veri a veranda üvegajtaját. Gizi összerezzen, a gyerekek összenéznek, de a nagylány intésére tovább szól az ének. Gizi fél kézzel vezényel, fél kézzel ajtót nyit. Trong lúc đó trước cửa nhà hai tay công an đang đập cửa gấp gáp. Bọn trẻ chợt im bặt nhìn nhau. Con Gizi giật mình, nhưng vẫn đưa tay ra hiệu cho lũ trẻ tiếp tục hát. Một tay nó vẫn bắt nhịp, còn tay kia với ra mở cửa.
Egy vörös képű tizedes és egy langaléta közrendőr lép a konyhába. Hai tay công an, một gã mặt đỏ như say rượu, còn gã kia thì cao lèo khèo bước vào nhà bếp.
A vörösképű a kórust nézi gyanakodva, a langaléta közrendőr a szemrevaló Gizire mered. Gã mặt đỏ nghi ngờ nhìn dàn đồng ca, còn gã cao kều thì đờ đẫn nhìn con Gizi xinh xắn.
- Hol az apád? - kérdi a vörös. - Bố mày đâu – Gã mặt đỏ hỏi.
Gizi hangja angyalian ártatlan: Tiếng con Gizi ngây thơ lanh lảnh:
- Szemináriumon. - Bố tôi đi họp.
A vörös gyanakszik. Tay mặt đỏ nghi ngờ.
- Éjnek idején? - Họp gì mà nửa đêm?
- Nappal kint van a gáton - mondja Gizi komolyan. - Ban ngày còn phải canh đê – Con Gizi nói với giọng nghiêm chỉnh.
- És ezek itt? - Thế bọn này?
A gyerekek épp elhallgattak. Gizi változatlanul ártatlan: Bọn trẻ ngừng hát. Con Gizi vẫn ngây thơ:
- Őrsi gyűlés. - A kisebbek felé fordul, harsányra vált. -Őrsvezető pajtás, jelentést kérek! - Họp chi đội – Nó quay về phía bọn trẻ hô to – Chi đội trưởng báo cáo!
Pisti kicsi, vörösesszőke, szeplős, de lelkes: Thằng Pisti tóc vàng hoe, mặt lấm tấm tàn hương hăng hái:
- Jelentem, a Pelikán őrs együtt áll, a létszám ... - Báo cáo, chi đội Pelikan có mặt. Sĩ số…
Folytatná, de a vörösképű tizedes maga felé fordítja. Nó chưa kịp nói hết thì gã mặt đỏ xoay nó lại phía mình.
- Ide figyelj, fiam, van nektek disznótok? - kérdi indulattól remegő hangon. - Này nhóc, nhà mày có nuôi lợn không? - Hắn run run hỏi.
Pisti kék szeméből süt az ártatlanság. Mintha leckét mondana fel: Đôi mắt xanh của thằng Pisti đầy vẻ thật thà. Nó nói làu làu như trả lời trên bảng:
- A disznó, az egy patás háziállat. Röfögni is szokott. Régebben megették a húsát. - Lợn là loài thú nhà có móng. Nó hay kêu ủn ỉn. Thịt lợn người ta ăn từ lâu rồi.
A tizedes tehetetlen: Tay hạ sĩ cáu tiết:
- Kapsz egy olyan pofont, hogy te fogsz röfögni, fiam! - S a többiekhez fordul: - Még egyszer kérdem, gyerekek. Van disznótok? - Tao cho mày cái tát để mày ủn ỉn bây giờ, nhãi con! - Hắn quay lại phía những đứa khác: - Tao hỏi một lần nữa, nhà chúng mày có lợn không?
Most a legkisebb szólal meg, egy kis fekete vakarcs: Lần này đứa bé nhất tóc đen trả lời:
- Nincs nekünk ahhoz moslékunk! - Nhà làm gì có thức ăn thừa nuôi lợn!
Ez döntő érv: a tizedes mélyen elgondolkodik. Tay hạ sĩ trầm ngâm suy nghĩ trước lý lẽ quá phải này.
Gizi pedig beint a kórusnak, az rázendít: Con Gizi lại ra hiệu cho dàn đồng ca, và cả lũ lại oang oang:
"Ej, haj, szép az élet, száll az ének... " "Ôi đời đẹp sao, tiếng hát tự hào…"
A rendőrök kihátrálnak. A tizedes visszaszól az ajtóból: Hai tay công an đi ra cửa nhưng gã hạ sĩ còn quay lại:
- Még visszajövünk! - Rồi chúng tao còn quay lại!
A gyerekek győzelmesen tovább énekelnek. Bọn trẻ sung sướng thắng lợi vẫn tiếp tục hát.
Aztán az apjuk mellett szorgoskodnak a pincében. Pörzsölik szegény Dezsőt. Nhưng chỉ một lát sau chúng đã kẻ nào việc ấy giúp bố thui Thằng Béo ở dưới tầng hầm.
Pelikán a tölteléket darálja nagy buzgalommal, Gizi segít. Pelikan ào ào xay thịt để nhồi xúc xích. Con Gizi cũng giúp bên cạnh.
Hirtelen kutyaugatás. Mindenki megmerevedik, fülel. Hosszú másodpercek múlnak el halálos csendben. Tự nhiên có tiếng chó sủa. Ai nấy sựng lại nghe ngóng. Vài giây chậm chạp trôi đi trong im lặng chết người.
De nem történik semmi. Pelikán arcára visszaül a mosoly, a munka tovább folyik. Fénylik a vörös hús, csikorog a daráló. Nhưng không có gì xảy ra. Pelikan thở phào nhẹ nhõm. Công việc lại tiếp tục. Thịt tươi đỏ au, cái máy xay thịt cót két cần mẫn.
Aztán hajnalban újra zörgetnek a verandaajtón. A gyerekek már ágyban vannak, Pelikán botorkál ki hosszú fehér gatyában, ajtót nyit, a jövevényekre pislog: Khoảng mờ sáng lại có tiếng đập cửa rầm rầm. Bọn trẻ đã lên giường đi ngủ. Pelikan mặc chiếc quần ngủ màu trắng lệt sệt ra mở cửa giọng ngái ngủ:
- Nem tudnak aludni? - Sao, các anh không ngủ được à?
A tizedes nem válaszol, egyenest a konyhába siet, körülszimatol, diadalmasan fölkiált: Tay hạ sĩ không trả lời mà đi thẳng vào trong bếp. Hắn khịt mũi đánh hơi rồi đắc chí kêu lên:
- Töpörtyűszagot érzek! - Đúng là mùi tóp mỡ rồi!
- Érdekes - dünnyögi Pelikán ártatlanul - én is töpörtyűről álmodtam. - Lạ thật – Pelikan cũng lẩm bẩm – Đây cũng vừa mơ được chén tóp mỡ.
A tizedes egyre izgatottabban szaladgál ki s be, még Gizi ágyához is odaugrik, a paplanát is felhajtja. De ott mást lát, nem töpörtyűt. Gizi illedelmesen felsikolt, a tizedes dühösen visszaejti a paplant, arca a szokottnál is vörösebb. Tay hạ sĩ nhấp nhổm chạy ra chạy vào, thậm chí hắn mò cả vào giường con Gizi lật chăn lên xem, nhưng nhìn thấy cái khác, không phải tóp mỡ. Con Gizi vờ hét tướng lên làm cho gã, mặt giờ còn đỏ hơn mọi khi vội thả chăn xuống.
- Elő azzal a töpörtyűvel! - Khôn hồn thì đưa tóp mỡ ra ngay!
A gátőrt buzgalom fogja el: Gã canh đê hăng hái không kém:
- Keressük együtt - mondja. - Ahogy így beszél róla, összefut a nyál a számban. - Ta cùng tìm cho nó nhanh. Gớm, anh nói làm tôi thèm rỏ cả dãi.
A tizedes elébe pattan, szikrázó szemmel nézi: Gã hạ sĩ nhảy phắt đến trước mặt hắn, mắt long lên:
- Maga bolondot csinál belőlem? - Anh định giễu ai đấy?
Nagy kék szempár csodálkozik vissza rá: Pelikan giương mắt ngạc nhiên:
- Én bolondot magából? Éppen ellenkező1eg! Én egyetértek, elvtársak. Csapjunk le együtt a bujkáló töpörtyűre! - Sao lại giễu nhau? Tôi hoàn toàn nhất trí với các đồng chí là hễ có tóp mỡ là phải truy cho ra, dù nó nằm bất kỳ chỗ nào.
A tizedes a langaléta közrendőrhöz fordul, aki Gizin legelteti a szemét. Gã hạ sĩ quay sang gã kều đang đờ mắt nhìn con Gizi.
- Maga nem érez töpörtyűszagot? - Anh có thấy mùi tóp mỡ không?
Az összerezzen, nagyot nyel: Gã kều giật mình nuốt nước bọt đánh ực:
- Én érzek. De én sokszor érzek. Különösen, ha beszélnek róla. Falusi gyerek vagyok én. - Có. Nhưng tôi thấy nhiều lần lắm, nhất là khi người khác nói đến tóp mỡ. Tôi chả là dân quê mà.
- Marha - mondja zavartan is, megvetőn is a tizedes, és int, hogy mehetnek. De az ajtóból azért visszaszól: - Ngớ ngẩn – gã hạ sĩ nói nửa lúng túng nửa khinh rẻ rồi ngoắc tay bảo đi ra. Thế nhưng đến cửa hắn còn ngoái lại:
- Még visszajövünk! - Rồi đây còn quay lại!
(còn tiếp) vnkatonak.com (AK_63)

0 comments:

Post a Comment