Sunday, June 27, 2021

A TANÚ - NHÂN CHỨNG. Song ngữ Hung Việt. Chương XIII.

18/11/2010

Người đàn ông to cao lực lưỡng đang kiên nghị nhìn thẳng tương lai Pelikan lòng đầy cảm thương nhìn bức tượng đồng của người đàn ông to cao lực lưỡng đang kiên nghị nhìn thẳng tương lai. Dưới chân tượng là một bảng đá cẩm thạch với dòng chữ:

"Cả đời vì nhân dân phục vụ,
Virag Arpad, 1907- "

Có lẽ chi tiết này của câu chuyện hoàn toàn là do tác giả hư cấu nên. Nhưng phải công nhận là cực đắt. Đó là thói suy tưởng công thần, coi mình, ngỡm mình sẽ luôn là bậc đáng kính muôn đời… ngay cả khi chết đi.

Giống như các vua chúa, kỳ công chuẩn bị lăng mộ cho chính bản thân mình.


MIÉRT VAN ITT ILYEN SÖTÉT, VIRÁG ELVTÁRS?

Chương XIII: SAO ĐÂY LẠI TỐI THẾ NÀY HẢ ĐỒNG CHÍ VIRAG?

Szép ilyenkor az őszi temető. Kis kupacokba gereblyézték a lehullott leveleket, és meggyújtották. Füstcsíkok szállnak az ég felé, megcsillan az őszi nap a fehér sírkövekén. Ezt nézi Pelikán József, és egy pillanatra el is feledkezik Virág elvtársról. Nghĩa địa vào mùa thu lúc này thật thơ mộng. Mấy đống lá khô người ta gom lại rồi châm lửa đốt nhả ra những tia khói ngoằn nghèo bay lên trời. Nắng thu lấp lánh đây đó trên các bia mộ bằng đá trắng. Pelikan mải nhìn cảnh thu mà quên cả đồng chí Virag trong vài giây phút.
- Hol álljak meg? - töri meg a csendet a gépkocsivezető. - Cho xe đến chỗ nào ạ? - Giọng người lái xe phá tan im lặng.
Halk, elszánt válasz: Câu trả lời khẽ nhưng cả quyết:
- A síremlékemnél. - Đến phần mộ của tôi.
Ünnepélyes lassúsággal gurul a fekete autó a napfényes temetőkben. Megállnak. Virág kiszáll, és leül a síremléke szélére. Pelikán összeszoruló szívvel nézi a daliás bronzférfit, aki bátor tekintettel néz a jövőbe, a talapzaton egy márványtábla: Chiếc xe hòm đen bệ vệ lăn bánh từ từ trong nghĩa trang rực nắng. Họ dừng lại. Đồng chí Virag bước xuống xe rồi ngồi xuống mé phần mộ của mình. Pelikan lòng đầy cảm thương nhìn bức tượng đồng của người đàn ông to cao lực lưỡng đang kiên nghị nhìn thẳng tương lai. Dưới chân tượng là một bảng đá cẩm thạch với dòng chữ:
„Egy élet a népért,
Virag Árpád 1907- "
"Cả đời vì nhân dân phục vụ,
Virag Arpad, 1907- "
A sofőr cigarettára gyújt, Virág a halántékához emeli a fekete pisztolyt. Tay lái xe châm thuốc hút, đồng chí Virag cầm súng lục nâng ngang thái dương.
Pelikán odarohan, lefogja a karját. Pelikan hớt hải chạy đến giữ tay đồng chí lại.
- Ne... ezt ne, Virág elvtárs! - Ấy, đừng, đừng đồng chí!
- Nem érdemes... - motyogja maga elé Világ. - Nem érdemes... - Không xứng...- đồng chí Virag thẫn thờ lẩm bẩm. - Hoàn toàn không xứng...
- Drága jó Virág elvtárs... Énmiattam? - szalad ki a kérdés Pelikánból. - Ôi đồng chí Virag ơi, tại tôi hay sao mà... - Hắn buột miệng.
- Nemcsak maga miatt... - Kinyitja a szemét, leereszti a fegyvert. - Mi egy életet áldozunk fel magukért, de maguk nem érdemelnek meg minket... Maguk egy szívtelen csürhe, és most még enyhén fejeztem ki magamat! - Không chỉ tại anh... - Đồng chí Virag mở mắt, để súng xuống. - Chúng tôi hy sinh cả đời chỉ vì các anh, nhưng các anh thật không xứng với những hy sinh của chúng tôi. Các anh là đồ bỏ đi. Đấy là tôi còn nói nhẹ đấy.
Leveti a zakóját, gombolni kezdi az ingét, hogy a fegyvert a szívéhez illeszthesse. Đồng chí cởi áo khoác ngoài rồi bắt đầu cởi khuy ngực áo sơ mi để chìa họng súng vào đúng tim mình.
- Ne! - fogja le újra a kezét Pelikán. - Én elismerem, hogy egy fölöttébb hülye, elmaradott pasas vagyok, de azért még ne tessék magát megöngyilkolni. Mielőtt meg tetszik húzni a ravaszt, tessék még egy kis szemináriumot tartani, hátha megértem, miról van szó. - Ấy đừng! - Pelikan lại một lần nữa giữ tay đồng chí. - Tôi xin thừa nhận tôi là một thằng ngu dốt, lạc hậu, nhưng xin đồng chí đừng vì thế mà huỷ hoại đời mình. Trước khi kéo cò, xin đồng chí bổ túc cho tôi một bài để tôi có chăng hiểu được vấn đề.
- Az igazságról - mondja Virág. Szavai mint kalapácsütések csapnak a temető csendjébe. - Az igazságról, amelyet lábbal taposnak. - Vấn đề ở đây là sự thật - Lời đồng chí gõ choang choang từng tiếng một vào im lặng của nghĩa địa. - Sự thật đang bị người ta chà đạp.
A válasz halk, de védekező: Tiếng hắn biện bạch lí nhí:
- Én igazán nem akartarn lábbal taposni. Csakhogy én a saját szememmel láttam... - Thực tình là tôi không có ý chà đạp. Nhưng khổ cái là chính mắt tôi nhìn thấy thế...
Virág keserűen felnevet. Đồng chí Virag cười chua chát.
- A saját szemével látta?! Ezen lovagol maga?! Amit a vaksi szemével lát, a botfülével hall, a tökfejével gondol? Hát az fontosabb, mint az igazság, amit a mi nagy céljaink elérésére alkalmazunk? - Chính mắt anh nhìn thấy à?! Anh tưởng ai cũng là trẻ con cả à? Anh có mắt cũng như mù, có tai như điếc, có óc mà không biết nghĩ! Anh tưởng là những cái anh nhìn, anh nghĩ quan trọng hơn sự thật cần thiết cho sự nghiệp của chúng ta hay sao?
Kitépi a karját Pelikán markából, megkerüli önnön síremlékét, hogy ismét homlokához emelhesse a fegyvert. Pelikán utánaveti magát, de ő elsiklik előle, kereng a szobor körül, ketten kenngélnek körülötte. Đồng chí giằng tay ra khỏi tay Pelikan rồi vòng sang bên kia phần mộ để chĩa súng vào thái dương mình. Pelikan vội vã nhảy theo định ôm lại, nhưng ông ta né được và tiếp tục chạy. Cứ thế hai người đuổi nhau vòng quanh phần mộ.
- Ne még, Virág elvtárs. Engem csak az tévesztett meg, hogy ismertem Dániel Zolit... Ez megzavart. Ha nem ismertem volna, sokkal könnyebben tudnék tanúskodni az ő bűnössége mellett. - Đồng chí hãy khoan đã. Khổ là tôi biết rõ Daniel Zoli quá nên không nhận ra được sự thật. Chỉ có mỗi điều này làm tôi không yên tâm. Nếu như tôi không quen biết gì thì tôi đã dễ dàng chỉ ra tội anh ta rồi.
Keserű kacaj csap az égre: Một tiếng cười cay đắng vang lên:
- Bűnös? Hát mutasson nekem egyetlen embert ebben a tetves országban, akiről öt perc alatt nem tudom bebizonyítani, hogy bűnös. Magáról is, magamról is, mindenkiról! - Tội ư? Anh thử chỉ cho tôi bất kỳ người nào trong đất nước chết tiệt này mà chỉ trong năm phút tôi không chứng minh được là có tội. Bất kỳ là ai, kể cả anh, kể cả tôi!
Pelikánt teljesen megzavarják ezek a szavak. Megrendül. Pelikan bị những lời này làm cho hoang mang cực độ. Hắn run rẩy.
- Lehet, hogy igaza van, Virág elvtárs... De tessék már eltenni azt a pisztolyt. - Có thể là đồng chí nói đúng, nhưng xin đồng chí hãy cất khẩu súng ấy đi.
A másik kezd életre kapni. Đối thủ của hắn dần tỉnh lại.
- Nem moralizálni kell, hanem cselekedni! De nézzük tovább… - Ráfogja a pisztolyt Pelikánra. - Én most szitává lőhetném magát. - Bây giờ phải hành động chứ không phải lúc nói suông. Nhưng ta phân tích tiếp...- Đồng chí chĩa súng vào Pelikan. - Anh có thể bị bắn tan xác ngay lập tức.
A másik bólogat: Hắn gật lấy gật để:
- Ez igaz. - Dạ, đúng thế ạ.
- Kiverhetném az összes fogát. - Hoặc tôi có thể đập trụi răng của anh.
- Azzal már el tetszett késni. - Dạ thưa, cái này thì đồng chí chậm mất rồi ạ.
- Forró kályhára ültethetném... nyakig vízbe állíthatnám... villanyt vezethetnék a heréibe ... - Tôi có thể cho anh ngồi lò lửa... dầm anh xuống nước... hoặc giả châm điện vào hai hột cà của anh...
Pelikánnak élénk a fantáziája; feljajdul. Virág folytatja: Trí tưởng tượng của Pelikan chợt hoạt động: hắn kêu oái, giật người. Đồng chí Virag tiếp tục:
- Vagy egyszerűen nem adnék magának enni... - Hoặc tôi cho anh nhịn đói...
- Ez lenne a legszörnyűbb... - Ôi thế thì chịu sao nổi...
- De én sose bántottam magát, Pelikán. Mert én olyan elvtársnak tartottam, aki önként, a maga akaratából, sőt örömmel teszi meg, amit eléje tűzünk. De csalódtam magában, Pelikán. Ezért hagyok itt most mindent. - Nhưng tôi không bao giờ hại anh, anh Pelikan ạ. Vì tôi nghĩ rằng anh là một đồng chí đáng tin cậy sẵn sàng tự ý, tự nguyện làm bất kỳ gì được giao. Thế nhưng anh làm tôi thất vọng quá. Vì thế tôi chẳng còn thiết gì nữa.
Ismét maga felé fordítja a pisztolyt. Pelikán elé áll, most nagyon ünnepélyes. Nói xong đồng chí lại cầm súng chĩa vào mình. Pelikan bước đến trước mặt đồng chí Virag giọng nghiêm trang quả quyết.
- Nem fog csalódni bennem, Virág elvtárs! - Tôi xin hứa sẽ không làm đồng chí phải thất vọng!
Virág visszadugja a pisztolyt a hóna alá, és könnyes szemmel magához öleli Pelikánt. Đồng chí Virag đút khẩu súng lục vào bao đeo dưới nách rồi rưng rưng nước mắt ôm Pelikan.
- Köszönöm, Pelikán elvtárs. A hitemet adta vissza. - Cảm ơn, rất cảm ơn đồng chí Pelikan. Đồng chí đã trả lại niềm tin cho tôi đó.
Frissen, ruganyosan megy vissza a kocsihoz. Beülnek, távolodik a temető. Virág dudorászik. Egyszerre megszólal Pelikán. Đồng chí nhanh nhẹn quay lại xe ô-tô. Họ lên xe, nghĩa địa dần xa. Đồng chí Virag cất giọng ca khe khẽ. Pelikan bỗng cất tiếng.
- De hát, ha Dániel Zoli bevallotta... - Thế nhưng, nếu Daniel khai...
- Most meg mit akar megint? - Anh lại muốn gì nữa đấy?
- Nem beszélhetnék én ővele? Tanúskodok én, ne tessék izgulni... de mégis... Ha ővele is beszélhetnék... mégiscsak más volna... - Cho tôi nói chuyện với anh ta có được không ạ? Xin đồng chí đừng lo, tôi sẵn sàng làm chứng...nhưng...nhưng nếu như tôi được nói chuyện với anh ta thì cũng khác hơn...
- Ne nyafogjon annyit... - inti le Virág. - Ha csak erre vágyik, találkozni fog Dániellel. - Thôi đừng kèo nhèo nữa...- đồng chí Virag gắt hắn. - Nếu anh chỉ có mỗi nguyện vọng này thì đấy, anh sẽ được gặp hắn.
És már súg is valamit a sofőr fülébe. Behajtanak egy udvarba, beszállnak egy nagy, rácsos liftbe. Felmennek egy vasfolyosón, lemennek egy vasfolyosón, aztán Virág kinyit egy különleges zárat, különleges kulccsal. Nói rồi đồng chí quay sang thì thầm gì với tay lái xe. Họ đến một sân trong rộng, sau đó bước vào một chiếc thang máy có lưới sắt bao quanh. Họ đi lên một hành lang sắt rồi lại đi xuống một hành lang sắt, sau đó đồng chí Virag móc một chiếc chìa khoá đặc biệt mở một cánh cửa đặc biệt.
- Tessék. Itt van a maga Dánielje. - Đây, Daniel của anh đây.
Pelikán belép. Bent koromsötét. Pelikan bước vào, bên trong tối đen như mực.
- Miért van itt olyan sötét, Virág elvtárs? - Tại sao ở đây tối thế?
- Mert ez egy sötétzárka, Pelikán. Csak beszélgessenek. - Vì đây là khám kín. Các anh cứ nói chuyện với nhau đi.
És fémes döndüléssel bezárul a zárkaajtó. Cửa xà lim loảng xoảng đóng lại.
Pelikán csak áll a sötétben, erőlteti a szemét, de hiába. Pelikan đứng trong bóng tối căng mắt nhưng không nhìn thấy gì cả.
- Van itt valaki? - kérdi bizonytalanul. - Có ai ở đây không? - Hắn ngập ngừng hỏi.
Csend. Không có tiếng trả lời.
- Dániel elvtárs! Dániel Zoli, itt vagy? - kérdi hangosabban. - Daniel Zoli, cậu có ở đây không đấy? - Hắn hỏi to hơn một chút.
Megszólal egy hang: Có ai đó lên tiếng:
- Ki az? - Ai đấy?
Pelikán megismeri, megörül. Pelikan nhận ra, mừng rỡ.
- Én vagyok, Pelikán. Pelikán Jóska, a gátőr. - Tớ đây, Pelikan đây. Pelikan canh đê đây.
Újra csend, Pelikán előrenyújtott kézzel, botorkálva elindul a hang irányába. Valamit felborít. Csörömpölés. Tất cả lại yên lặng, Pelikan đưa tay quờ quạng theo hướng giọng vừa nói. Hắn làm đổ cái gì đó. Tiếng kêu loảng xoảng.
- Vigyázz: balra... - irányítja Dániel. - Erre, Jóska... erre. - Cẩn thận! Sang trái một tí...- Daniel hướng dẫn bạn. - Lại đây, Joska...lại đây.
Már közelró1 hallani a másik ember lélegzését. A gátőr ujja hegyével megérez egy emberi arcot. Szótlanul összeölelkeznek. Aztán Dániel: Đã có thể cảm thấy hơi thở của người đứng gần. Tay gã canh đê sờ xoạng khuôn mặt quen thuộc. Hai người ôm nhau không nói một lời. Cuối cùng Daniel lên tiếng:
- Hát te? - Sao cậu...?
És Pelikán: Pelikan hỏi lại:
- Hát te? - Thế cậu...?
- Mi van a Dunával? - Tình hình sông Đu-na thế nào?
- Árad, a fene egye meg. - Mẹ kiếp, nước lên cao quá.
- Téged mikor gyűjtöttek be? - Họ tóm cậu khi nào?
- En csak tanú vagyok. - Ebben némi szégyenkezés csendül. - Không, tớ chỉ là nhân chứng thôi. - Pelikan ngượng ngùng nói.
- Tanú? Milyen tanú? - Sao lại nhân chứng? Nhân chứng gì cơ?
- A te ügyedben. Én nem akartam. De azt mondták: muszáj. - Nhân chứng trong vụ của cậu. Tớ không muốn. Nhưng họ bảo là bắt buộc.
Kis szünet. Aztán Dániel folytatja: Họ im lặng một lúc rồi Daniel tiếp tục.
- Értem. Hát akkor tanúskodj. - À, hiểu rồi. Thế thì cậu cứ làm chứng tự nhiên.
- Én már tanúskodnék, de amilyen marha vagyok, sehogyan sem hiszem el az egészet. Azért is kéne, hogy veled beszélgessek. - Tớ sẵn sàng làm chứng, nhưng khổ cái là tớ ngu đần đến nỗi không thể tin được tí nào vụ này cả. Chính vì thế mà tớ muốn nói chuyện với cậu.
Tompa, színtelen a válasz: Câu trả lời uể oải:
- Hát beszélj. - Thế cậu cứ nói đi.
- Én nem tudok mit mondani. Te beszélj. Tudniillik én nem hiszek el semmit, amit rólad el kell mondanom. - Tớ không biết nói cái gì. Cậu phải nói mới đúng, vì thực tế tớ hoàn toàn không tin những điều tớ phải nói về cậu.
- Tényleg nem hiszed el? - éled fel Dániel hangja. - Thật là cậu không tin à? - giọng bạn hắn chợt hy vọng.
- Hát persze... - mondja Pelikán egyszerűen. - Elég régen ismerlek, vagy mi a fene?! Most én nyomjalak a víz alá? Szóval, beszélj. Ha tőled hallom, én elhiszem. - Là cái chắc... - Pelikan chân thành nói. - Tớ quen cậu từ lâu, đúng không nào?! Giờ chả nhẽ lại hại cậu à? Thế nên cậu nói đi. Cậu nói gì tớ cũng tin.
Csend. Không có tiếng trả lời.
Dániel feláll, járkál a cellában, aztán töprengve megszólal. Bạn hắn đứng dậy, đi đi lại lại trong khám rồi nghĩ ngợi nói.
- Nézd, Jóska... Én nem véletlenül kerültem ide... Az ember úgy is lehet bűnös, hogy nem is tud róla. - Joska, cậu thấy đấy... Tớ phải vào đây không phải là ngẫu nhiên... Người ta nhiều khi không biết vì sao lại có tội.
- Értem - bólint Pelikán a sötétben. - Illetve nem értem. Én ott voltam a Dunán. És ott nem voltak semmiféle békaemberek, sem ürgebőrbe bújtatott titkos iratok. Egyszerűen vízbe rántott az a nyavalyás harcsa. - Tớ hiểu - Pelikan gật gù trong bóng tối. - Nói cách khác là tớ không hiểu. Tớ cũng ở đó với cậu bên bờ sông Đu-na mà có thấy người nhái, người ếch hay tài liệu bọc trong da chuột đồng nào đâu. Chỉ có cậu bị con nheo bỏ mẹ đó nó kéo ngã xuống nước thôi.
Dániel megint fáradtan kérdez vissza: Bạn hắn lại mệt mỏi hỏi lại:
- Fontos ez? - Cái này có quan trọng gì cơ chứ?
- Nem fontos? - Sao lại không quan trọng?
- A fontos az, hogy én bűnös legyek. - Mintha egy kéz legyintene a sötétben. Mély sóhajt hallani. - Könnyebb volt harcolni a barikádokon. Az igazság az, hogy mi csak figurái vagyunk egy rettenetes sakkjátszmának. Van egy cigarettád? - Quan trọng nhất là tớ phải là kẻ có tội. - Dường như có ai phảy tay trong bóng tối kèm theo tiếng thở dài. - Đấu tranh trực diện với quân thù sao mà dễ thế. Nói trắng ra thì chúng ta chỉ là những con tốt đen trong một ván bài khủng khiếp. Cậu có thuốc không?
Pelikán ad neki egyet, és nagyon élénken kérdi: Pelikan chìa cho bạn một điếu rồi nhớn nhác hỏi:
- Te is csak figura vagy? Akkor mit szóljak én? - Tüzet ad. - Nekem valami rossz érzésem van... Nem lesz ebből baj? - Cậu cũng chỉ là tốt đen thôi à? Thế thì còn kể gì đến tớ. - Hắn châm lửa. - Tớ cảm thấy có điều gì không ổn ... Có chắc là sẽ không có can hệ gì từ vụ này không?
Dániel mélyet szív a cigarettából, a felparázsló tűz megvilágítja nyúzott arcát. Fáradtan elmosolyodik. Daniel rít một hơi thuốc dài, đầu điếu thuốc cháy soi rõ một bộ mặt phờ phạc. Ông ta cười gượng gạo.
- Remélem, túléljük. - Hy vọng là chúng ta sẽ thoát.
Ebben a pillanatban nyilik az ajtó, a keretében Virág. Đúng lúc đó cửa xà lim mở và đồng chí Virag hiện ra.
- Befejezték? - Xong chưa?
Pelikán némán kezet fog Dániellel, kimegy az ajtón. Pelikan lẳng lặng bắt tay bạn rồi đi ra.
Kinn Virág átfogja a vállát. Ra đến ngoài đồng chí Virag quàng vai hắn.
- Most már jelenthetem Bástya elvtársnak? - Bây giờ tôi đã báo cáo đồng chí Bastya được chưa?
Fáradt bólintás: Hắn gật đầu mệt mỏi:
- Mindent jelenthet. - Báo gì cũng được.
Virág már a fekete autóból feltárcsázza Bástya elvtársat. De a tábornok házon kívül van. Đồng chí Virag gọi điện cho đồng chí Bastya ngay ở trong xe, nhưng vị tướng không có ở cơ quan.
- Utánamegyünk! - mondja diákos izgalommal. - Volt már hajtóvadászaton? - Ta đi thẳng đến đó! - đồng chí hồi hộp nói như một học sinh trước kỳ thi. - Anh đã đi săn bao giờ chưa?
- Még sosem - mondja Pelikán. - Chưa bao giờ. - Pelikan trả lời.
- Nem baj. Ezt is el kell kezdeni. - Không sao. Món này cũng phải quen đi là vừa.
(còn tiếp) vnkatonak.com (AK_63)

0 comments:

Post a Comment