Saturday, June 19, 2021

A TANÚ - NHÂN CHỨNG. Song ngữ Hung Việt. Chương XII.

14/03/2010

Duyệt bản thảo tác phẩm: Tóm lại là cần có một kịch bản cho tội phản bội tổ chức, cấu kết với đế quốc... Để sau đó có thể là tử hình, là tù tội dài dài...

Đc Virag đã nhờ một nhà văn quen biết, có trí tưởng tượng tuyệt vời, sau một hồi lao động đã tạo nên những tình tiết cực kỳ sáng tạo dựa trên các sự kiện hoàn toàn vô hại, chẳng đâu vào đâu để khép tội đc Daniel.


LEGYEN DOBOZ, DE ÜRGEBÖRBE VARRVA!

Chương XII: HỘP CŨNG ĐƯỢC, NHƯNG BỌC DA CHUỘT ĐỒNG

A Duna sajnos áradt. Pelikán józsef néhány önkéntes falusival homokzsákokkal magasítja a gátat, mikor váratlanul megérkezik Virág elvtárs, és beülteti maga mellé a fekete kocsiba. Khổ nỗi nước sông Đu-na ngày càng cao. Pelikan đang cùng vài người tình nguyện trong thôn xếp các bao tải cát để đắp đê cao lên thì bỗng nhiên đồng chí Virag đến và gọi hắn lên ngồi cạnh mình trong chiếc xe hòm đen.
- Hová megyünk? - kérdi tőle szorongva. - Đi đâu vậy, đồng chí? – Pelikan lo lắng hỏi.
- Mára lesz kész a vallomása. Bevallom, egy kicsit én is izgulok. - Cinkosan megtoldja: - Megkérhetem valamire? Legyen tapintatos. Ha valami nem tetszik, mondja meg nekem. Tussinger elvtárs nagyon érzékeny... afféle művészlélek... Szóval, érti? - Hôm nay, theo dự tính lời tự thú của đồng chí sẽ xong. Thú thực là tôi cũng hồi hộp chứ chẳng phải không. - Đồng chí tin cẩn quay sang hắn: - Tôi có thể yêu cầu đồng chí ý tứ một chút được không? Nếu có điểm nào không vừa ý thì nói cho tôi biết thôi. Đồng chí Tussinger (Tu-sin-ge) là dễ tự ái lắm… chả là tâm hồn nghệ sĩ mà…Đồng chí hiểu ý tôi chứ?
A gátőr nem érti, de bólint. Gã canh đê không hiểu, nhưng gật đầu.
Az író elvtárs alkotóháza fent van a hegyekben. A teraszon, amelyet hatalmas zöld lucfenyők vesznek körül, egy faragott íróasztalnál ül Tussinger, és veri az írógépet. Fekete, szőrös férfi, atlétatrikóban, többnapos szakállal. Nơi sáng tác của đồng chí nhà văn là ngôi nhà mãi tít tận trên núi. Trên sân hiên được trồng thông xung quanh đồng chí Tussinger đang ngồi đánh máy như điên cạnh một chiếc bàn chạm trổ. Đó là một người tóc đen lông lá, mặc áo may ô, râu mấy ngày chưa cạo.
- Itt vagyunk, Tussinger elvtárs! - köszön rá Virág. - Mára ígérted! - Chào đồng chí Tussinger, chúng tôi đến rồi đây. - Đồng chí Virag cất tiếng chào. - Cậu hứa là hôm nay sẽ xong đấy nhé!
Tussinger szív egyet a cigarettáján, de nem néz fel az írógépről. - Người kia rít một hơi thuốc lá, nhưng vẫn không ngẩng lên.
- Nem vagyok gép - morogja. – Üljetek le. - Tôi không phải là cái máy. - Hắn cằn nhằn. – Các cậu ngồi xuống đi.
Virág és Pelikán leülnek a hófehér szecessziós kerti székekre, és hallgatják a féktelen madárcsicsergést, amit még az írógép zakatolása sem tud elnyomni. Đồng chí Virag và Pelikan ngồi xuống ghế ngoài trời kiểu tân cổ sơn trắng tinh lắng nghe tiếng chim hót líu lo vang rộn át cả tiếng loạch xoạch của cái máy chữ.
- Én nem sürgetlek -jegyzi meg halkan Virág -, te mondtad ezt a dátumot. - Tớ không giục cậu - đồng chí Virag nói khẽ - Chính cậu nói là ngày hôm nay sẽ xong.
- Akkor is - duzzog Tussinger - ez nem cipőgyártás. - Ujjai sebesen ugrálnak a betűkön, végül leüti az utolsó pontot, kirántja a papírt a gépből. - Nói thì nói, nhưng đâu có dễ - Người kia làu bàu: - Đây không phải là xưởng sản xuất giày.- Mấy ngón tay hắn múa tít trên phím chữ, cuối cùng hắn mổ dấu chấm hết rồi giật bản thảo ra khỏi máy chữ.
- Készen vagyok - mondja megkönnyebbülve. - Xong rồi đây – gã văn sĩ thở phào nhẹ nhõm.
Összerakja a gépelt papírlapokat, rendbe rak két példányt, odaadja. Hắn ta sắp xếp lại các tờ giấy đã đánh máy, chia làm hai bản rồi đưa cho khách.
- Tessék, lehet olvasni! - Tölt magának egy pohár italt, mohón felhajtja. - Tudod, Virág elvtárs, hogy milyen szigorú vagyok magamhoz. De úgy érzem: ilyen jót még nem írtam életemben. - Đây, cậu đọc đi! - Hắn tự rót rượu cho mình rồi làm một tợp hết sạch. - Cậu biết là tớ luôn tự nghiêm khắc với bản thân tới mức nào. Nhưng tớ phải thú thực là trong đời chưa bao giờ viết hay như thế này.
Megnézi, végigméri a másik jövevényt. Hắn đưa mắt nhìn từ đầu đến chân người khách thứ hai.
- Maga az a Pelikán? - Anh là Pelikan đấy à?
- Én vagyok. - Dạ vâng.
- Irigylem magát. Na, olvassa. - Tôi thực sự ghen với anh. Nào, anh đọc đi.
Azok ketten olvasni kezdik a vallomást. Tussinger újra tölt az aranybarna konyakból, fel-alá sétál, figyeli az arcukat. Nem bírja ki, hogy meg ne kérdezze: Thế là cả Pelikan lẫn đồng chí Virag cắm đầu đọc bản tự khai. Tussinger lại tự rót cho mình một cốc cô-nhắc nâu vàng nữa rồi đi đi lại lại theo dõi thái độ của các độc giả. Cuối cùng không nhịn được nữa, hắn hỏi:
- Hol tartasz? - Nào, đọc đến đâu rồi?
- A békaembereknél... - néz fel Virág. - Đến đoạn bọn người nhái… - đồng chí Virag nhìn lên.
- Eddig hogy tetszik? - Cho đến đây cậu thấy thế nào?
- Eddig jó. - Elismerően bólint: - Semmi sablon. - Rất khá. - đồng chí Virag gật gù thừa nhận: - Không khuôn mẫu tí nào.
- Ötször átírtam - törli ki a hónaljából a verítéket zsebkendővel Tussinger. - Utálom az elhasznált patronokat. No, olvassák csak nyugodtan. - Tớ phải viết lại năm lần đấy - Hắn lấy khăn mùi xoa lau mồ hôi nách. - Tớ ghét nhất là dập khuôn sáo rỗng. Nào, các cậu cứ đọc tự nhiên.
Virág elolvasta, elgondolkodva teszi le az iratcsomót. Đồng chí Virag đọc xong rồi trầm ngâm đặt bản thảo xuống.
- Nos? - kérdi Tussinger izgatottan. - Thế nào? – Tussinger hồi hộp hỏi.
- Nagyon szép. - Virág elismerően lehunyja a szemét. - Rất hay. - Đồng chí Virag từ từ nhắm mắt khen bạn.
Pelikán sokkal lassabban olvas, egyre kevésbé érti az egészet, még a szemüvegét is felteszi. Pelikan đọc chậm hơn nhiều, vì hắn ngày càng thấy khó hiểu lời tự khai của mình đến nỗi phải đeo kính cho rõ.
- És ezt mind nekem kell elmondani? - szólal meg végre vérvörösen. - Tất cả đây là lời tôi phải nói à? - Cuối cùng hắn hỏi mặt đỏ gay.
- Maga a koronatanú, nem? - néz rá Tus-inger sértődött kihívással. - De csak mondja meg, ha valami nem tetszik. Én bírom a kritikát. No, kezdje, jó ember! - Anh là nhân chứng chính chứ còn ai nữa? – Tussinger nhìn hắn với chút tự ái. – Nhưng nếu có điểm nào đó chưa bằng lòng thì anh cứ nói thẳng. Phê bình đối với tôi là chuyện thường. Nào, có muốn thì nói đi!
Hol is kezdje? Tétován vág neki. Pelikan phân vân không biết phải bắt đầu từ đâu.
- Kérem szépen, én igazán nem értek hozzá, ideológiailag is teljesen kezdő vagyok, de az mégis csak marhaság, hogy Dániel elvtárs fémdobozokat dobált be a Dunába, és azokban voltak a kémjelentések. - Thưa đồng chí, tôi thật ra không phải chuyên viên khoản này, mà về mặt tư tưởng thì tôi mới chỉ vỡ lòng, nhưng viết là đồng chí Daniel ném hộp sắt chứa các báo cáo gián điệp xuống sông thì rõ ràng là chuyện bịa đặt nực cười.
- Miért, maga szerint miket dobott be a Dunába? - kérdi Tussinger sértett gúnnyal. - Húsvéti tojásokat? - Anh đừng có ăn nói linh tinh. Theo anh thì Daniel vứt gì xuống sông? – Tussinger hỏi với giọng hằn học mỉa mai. - Bánh vẽ chắc?
- Ürgéket - mondja Pelikán lelkes meggyőződéssel. - Ezt onnan tudom, hogy előzőleg levágtam a farkukat. El is adták a gyerekek a MÉH-nek, farkanként két forintért. - Đồng chí ấy ném chuột đồng. – Pelikan hăng hái tin tưởng vào sự thật. – Tôi biết rõ vì trước đó chính tự tay tôi cắt đuôi chúng để bọn trẻ mang ra phòng thu mua lĩnh tiền thưởng năm xu một chiếc.
- Fuj! - undorodik az egésztől Tussinger. - Kit érdekel ez? Tiszta naturalizmus. Aztán?! - Tởm! – lão Tussinger nhăn mặt – Có ai quan tâm gì đến cái này. Hoàn toàn là chủ nghĩa tự nhiên thuần tuý. Còn gì nữa?!
Most már megy a kritika: Bây giờ mới đích thực là phê bình:
- Aztán az se stimmel, hogy Dániel elvtárs beugrott a Dunába, és a víz alatt beszélte meg a békaemberekkel a mi bölcs nagy vezérünk és a többi elvtárs meggyilkolását. Dániel elvtárs egy harcsa után futott, úgy esett be a vízbe. - Rồi thì chuyện đồng chí Virag nhảy xuống đáy sông Đu-na để bàn với người nhái âm mưu ám sát lãnh tụ vĩ đại anh minh của chúng ta và các đồng chí lãnh đạo khác thì thực là vớ vẩn. Thực ra là đồng chí ấy giằng co với con cá nheo to rồi bị ngã xuống nước.
- Látta maga azt a harcsát? - csap le rá Tussinger. - Anh có nhìn thấy tận mắt con cá nheo đấy không? – Tussinger không bỏ lỡ cơ hội.
Váratlan a kérdés, szeppent a válasz: Câu hỏi thật bất ngờ nên câu trả lời hơi do dự:
- Nem láttam. - Không, tôi không thấy.
- Na látja, akkor mit kritizál?! - Tussinger sértődötten kezd fel és alá járkálni, látszik, hogy nagyon emészti magát. - Az ürgéken lehet vitatkozni, de a békaembereket nem hagyom. Mi a véleményed, Virág elvtárs? - Thế thì anh còn giở giọng phê bình cái gì?! – Tussinger mặt đỏ gay đi đi lại lại rõ ràng là đang kìm cơn tự ái đang bùng lên. – Tranh luận về chuột đồng thì còn có thể được, nhưng đừng có động vào đám người nhái của tôi. Theo cậu thì thế nào, đồng chí Virag?
Virág megsimítja a bajuszát, és feláll. Érzi, hogy neki kell a feszültséget megszüntetnie. Karon fogja Tussingert, vele együtt folytatja a sétát, nyugtatgatja. Đồng chí Virag miết râu mép rồi đứng dậy. Ông linh cảm thấy trách nhiệm của mình là phải hoà giải căng thẳng lúc này. Đồng chí quàng tay Tussinger kéo đi dạo rồi vỗ về.
- Szerintem jók a békaemberek. A fémdobozokat esetleg át lehet írni. - Theo tớ thì đám người nhái được. Hộp sắt thì có thể nên viết lại.
Tussinger megmerevedik, mélységesen meg van sértve. Tussinger sững người lại vì lòng tự trọng bị tổn thương nặng.
- Átírni? Jó, én átírom, de akkor ti mondjátok meg, hogy hogyan. - Viết lại là thế nào? Thôi được, tôi sẽ viết lại nhưng xin các anh đọc cho tôi viết.
És várakozva néz. Thế rồi hắn nhìn đồng chí Virag chờ đợi phản ứng.
Virág lehunyja a szemét, ismét belekarol Tusaingerbe. Đồng chí Virag lại nhắm mắt rồi lại quàng tay Tussinger.
- Lehet, hogy hülyeséget mondok - kockáztatja meg -, de mit szólnál ahhoz, ha például maradna a doboz, de ürgebőrbe varrva? Így talán még hitelesebb volna. - Có thể là tớ nói dớ dẩn - đồng chí thử lời – nhưng giả dụ là ta vẫn giữ hộp sắt, nhưng khâu vào da chuột đồng thì cậu thấy thế nào? Như thế có khi sát thực hơn.
Tussinger elgondolkodik, elismerően bólint. Tussinger nghẫm nghĩ rồi gật đầu thừa nhận.
- Nem rossz. Egész jó írói vénád van, Virág elvtárs. Miért nem írsz? - Cũng không phải là tồi. Xem ra cậu cũng có khiếu văn ra phết. Tại sao cậu không thử viết nhỉ?
Virág szerényen lehunyja a szemét. Đồng chí Virag khiêm tốn nhắm mắt.
- Nincs időm. És vannak, akik ezt jobbam értik. - Tớ không có thời gian, mà còn có những người còn viết giỏi hơn.
- Jó. Az ürgéket átírom. - Pelikánhoz fordul. - Na? Van még valami kifogása? - Thôi được. Tớ sẽ viết lại đoạn chuột đồng. - Tussinger quay về phía Pelikan sẵng giọng. – Nào còn gì nữa thì nói nốt đi.
- Ha meg nem sértem az elvtársat... Az a titkos rádiózás a vendégszobában... - Széttárja a karját. - Lehet, hogy én rosszul emlékszem, de Dániel elvtárs csuromvíz volt, hangosan vacogott, és én befektettem a dunyha alá... - Nếu như tôi không làm đồng chí phật ý…Cái chuyện đánh điện đài bí mật trong buồng khách nhà tôi… - Pelikan giang tay. – Có thể là tôi nhớ không rõ, nhưng đồng chí Daniel bị ướt như chuột lột, run cầm cập nên tôi phải để vào giường nằm đắp chăn…
- Miért? Dunyha alatt nem lehet rádiózni? - Thế thì sao nào? Chẳng nhẽ không đánh điện đài được ở trong chăn à?
- De nekem egész másról van tudomásom - jegyzi meg szerényen Pelikán. - A dunyha alatt tudniillik ott volt a kislányom, Gizi is. És szó sem volt rádiózásról. - Nhưng theo tôi biết thì lại là chuyện hoàn toàn khác xảy ra. – Pelikan nhỏ nhẹ. - Ở trong chăn còn có cả con Gizi nhà tôi nữa. Hoàn toàn không dính dáng gì đến điện đài cả.
Tussinger megvetéssel szól közbe: Tussinger khinh bỉ ngắt lời hắn.
- Fuj. Ilyen disznóságokat akar elmondani? Tiszta pornográfia. - Rõ tởm! Anh định đem chuyện bẩn thỉu ấy ra mà kể à? Thật là văn hoá đồi truỵ quá thể.
- Az lehet, kérem - kap ezen Pelikán. -Én azt mondtam Gizinek, hogy vigyen be neki forró teát, az én drága lányom pedig nem állt meg a teánál. - Có thể là đồi truỵ thật, thưa đồng chí – Pelikan tiếp tục. – Tôi bảo con cháu mang nước chè nóng vào cho khách, nhưng khổ nỗi chè nóng nó cho là chưa đủ.
- Szép kis apa maga! Van még valami kifogása? - Thật cha nào con ấy! Còn thắc mắc gì nữa không nào?
Még mielőtt Pelikán felelhetne, közeledő autószirénahang veri fel a kies erdő csendjét. Virág és Tussinger jelentőségteljesen egymásra néznek. Az író az ingéért nyúl, villámgyorsan fölkapja, begombolja, nyakkendőt köt, felveszi a zakóját. Mindketten vigyázzba merevednek. Trước khi Pelikan kịp trả lời thì bỗng có tiếng còi hú dài phá tan không khí yên ắng trong rừng. Đồng chí Virag và lão nhà văn nhìn nhau đầy ngụ ý. Tussinger mặc vội áo sơ mi, thắt cà vạt rồi choàng áo ngoài chỉnh tề. Cả hai đứng nghiêm chờ đợi.
Kisvártatva Bástya elvtárs vonul be a teraszra két hadsegéde kíséretében. Một lát sau đồng chí Bastya bước vào sân hiên, đằng sau là hai sĩ quan trợ lý.
- Erőt, egészséget, Bástya elvtárs! - Chúc đồng chí khoẻ! - cả hai hô.
- Pihenj! - int Bástya elvtárs. Tussingerhez fordul. - Kész van? - Nghỉ! - đồng chí Bastya đưa tay ra lệnh rồi quay sang lão nhà văn. – Xong chưa?
- Kész vagyok, Bástya elvtárs. - Báo cáo đồng chí, xong rồi ạ.
- Ide vele! - Đưa tôi xem!
Tussinger átnyújtja a kéziratköteget. A tábornok felteszi a szemüvegét, olvasni kezd. Egyszerre sötétre komorul szép buldogarca. Tussinger trịnh trọng đưa tập bản thảo. Vị tướng đeo kính lên mắt rồi đọc. Tự nhiên bộ mặt hơi phù của đồng chí tối sầm.
- Mi az?! Hát Bástya elvtársat már meg se akarják gyilkolni?! - Villámló szemekkel néz Tussingerre. - Én már szart érek?! - Cái gì thế này?! Không đứa nào muốn ám sát đồng chí Bastya à?! - Cặp mắt đồng chí toé lửa nhìn lão nhà văn. – Tôi chả là cái cứt gì nữa à?!
Az író falfehéren mentegetőzik. Tussinger mặt trắng bệch phân trần.
- Gondoltam ... az előző perben is... nem akartam magam ismételni... De önkritikát gyakorolok. Bástya elvtársat a második helyen akarták meggyilkolni. Jó lesz így? - Dạ tôi cũng có nghĩ… cả trong vụ án trước cũng có ạ… giờ tôi không định lặp lại… Nhưng tôi xin tự phê. Đồng chí Bastya sẽ đứng thứ hai trong danh sách những người chúng định ám sát. Có được không ạ?
- Jó - enyhü1 meg a buldogarcú tábornok. - Különben tetszik. - Được - vị tướng đã bớt giận. – Nhìn chung thì lời khai rất khá.
- Nekem is tetszik - buzgólkodik Virág. - Sok álmatlan éjszakánk fekszik benne. Kerültük a sablonokat. - Báo cáo, tôi cũng thấy như vậy ạ - đồng chí Virag hăng hái. – Đây là kết quả của bao đêm mất ngủ của chúng tôi đấy ạ. Chúng tôi cố gắng tránh các khuôn mẫu cứng nhắc.
- Szerénység - inti le Bástya elvtárs. - Ne tömj énezze magát. - Hãy khiêm tốn - đồng chí Bastya khuyên dụ. – Anh đừng quá tự khen mình.
- Igenis - merevedik vigyázzba Virág. - Nem fogom magam tömjénezni. - Báo cáo, rõ! - đồng chí Virag đứng nghiêm phắt. – Tôi sẽ không tự khen mình quá nữa ạ.
- Szerénység... - mereng el Bástya elvtárs. - Ha én szeretek valamit magamban: az a szerénység. - Khiêm tốn… - đồng chí Bastya trầm nghâm suy nghĩ. - Đức tính của bản thân mà tôi ưa nhất chính là sự khiêm tốn.
Meghatva állnak valamennyien. Most Bástya elvtárs felemeli a fejét, megakad a szeme Pelikánon. Tất cả đứng im bồi hồi. Đồng chí Bastya ngẩng đầu lên và chợt nhìn thấy Pelikan.
- Ez a dagadt kicsoda? - Tay bệu này là ai vậy?
- Pelikán - mondja Virág. - Ő lesz a koronatanú. - Đây là Pelikan - đồng chí Virag trả lời. – anh ta sẽ là nhân chứng chính.
A kiszemelt viszont úgy érzi, elérkezett a pillanat, amikor fordíthat a helyzeten. Người được chọn lựa giờ cảm thấy thời cơ thoát hiểm của hắn đã đến.
- Bástya elvtárs, kérem... - kezdi el bizonytalanul. - Én őszintén megvallom... én ideológiailag... én csak egy egyszerű gátőr vagyok... - Thưa đồng chí Bastya… - hắn ngập ngừng – Tôi thành thật với đồng chí là… về mặt chính trị tư tưởng… tôi chỉ là một người canh đê bình thường...
- Magát már láttam valahol... - fürkészi az arcát a tábornok. - Hình như tôi đã nhìn thấy anh ở đâu rồi… - vị tướng nhìn chằm chằm vào mặt hắn.
- Hogyne... - mondja Pelikán szelíden. -Először az uszodában, aztán le tetszett csukatni, aztán a Vidám Parkban, ezután is le tetszett csukatni, utána a Narancsligetben, ezután ki tetszett tüntetni. De nekem van valami rossz érzésem... Én tanú sem akartam lenni. - Đúng thế ạ… - Pelikan khiêm tốn trả lời. - Đầu tiên là ở bể bơi, sau đó đồng chí cho vào tù ạ, sau đó là ở Công viên Vui, và đồng chí lại cho vào tù ạ, rồi sau đó là ở Viện cam, ở đó đồng chí cho đứng lên nhận huân chương ạ. Nhưng tôi thấy có gì không ổn… Tôi thật tình không muốn làm chứng.
- Nem akart? - döbben meg Bástya elvtárs. - Hát akkor hogy kerül ide? - Không muốn à?! - đồng chí Bastya sửng sốt. - Thế tại sao anh lại ở đây?
- Magam sem tudom. Nekem most kint kellene lennem a gáton. Mint gátőrnek. - Ngay cả tôi cũng không biết ạ. Giờ này đáng nhẽ tôi phải có mặt trên đê cơ ạ.
Bástya buldogarca egészen elsötétül. Đồng chí Bastya tối sầm mặt.
- Virág! Ez így nincs jói. Nekünk önkéntes tanúk kellenek. Érti? - Megsemmisítő a tekintete. - Anh Virag! Thế này thì không được. Chúng ta cần những nhân chứng hoàn toàn tự nguyện. Anh hiểu chưa? - Cặp mắt ông ta tưởng như thiêu cháy kẻ đứng trước mặt.
Tussiriger kétségbe van esve, Virág teljesen összeomlott. Tussinger hoảng loạn cuống cuồng còn đồng chí Virag thì sụp đổ hoàn toàn.
Az író majdnem sírva mutat a kéziratkötegre: - Most dobjam el az egészet? Gã nhà văn tay chỉ vào bản thảo nói gần như khóc: - Giờ vứt hết cả đi sao?
Bástya elvtárs hajthatatlan. Đồng chí Bastya sắt đá.
- Nem érdekel. Tanú-ügyben nem tréfálok. Végeztem! - Tôi không cần biết. Trong chuyện nhân chứng tôi không đùa. Hết!
És két hadsegéde kíséretében elvonul. Dứt lời đồng chí cùng hai sĩ quan trợ lý đi thẳng.
Szörnyű letörtség lesz úrrá az ottmaradottakon. Virág percek alatt éveket öregedett. Tussinger a kéziratát lapozgatja: Cả ba người còn lại đều rã rời. Đồng chí Virag tưởng chừng già đi mấy tuổi còn gã nhà văn thờ thẫn lật mấy trang bản thảo:
- Most dobjam el az egészet? - Chả nhẽ vứt cả đi sao?
Virág nem felel, magába roskadtan ül. Lassan feláll, megöleli Tussingert. Mint aki nagyon hosszú útra készül. Đồng chí Virag ngồi rũ không trả lời. Lát sau đồng chí từ từ đứng dậy ôm vai gã nhà văn như một người sắp đi xa, rất xa.
- Szervusz, Bélám! - Chào cậu.
Az rémülten néz rá. Người kia hoảng hốt nhìn bạn.
- Csak nem? Itt hagysz minket? - Cậu định thật đấy à? Cậu hãy nghĩ lại đi.
Virág lehajtja a fejét, széttárja a karját, aztán elindul lefelé a lépcsőn. Đồng chí Virag cúi đầu giang tay vô vọng rồi chậm chạp bước xuống bậc thang.
Pelikánnal nem törődik senki. A gátőr mintha mély álomból ébredne, ijedten ugrik fel. Lúc này không ai để ý đến Pelikan cả. Gã canh đê dường như chợt bừng tỉnh, hắn giật mình bật dậy.
- Engem ne tessék itthagyni! - Ấy, đợi tôi với!
És rohan Virág után, beül mellé a fekete autóba. Hắn cắm cổ chạy ra rồi nhảy lên trên chiếc xe đen ngồi xuống cạnh đồng chí Virag.
- A temetőbe! - hallja a sofőrnek adott parancsot. Ettől nagyon furdalni kezdi a lelkiismeret. - Đến nghĩa trang! - Hắn nghe thấy tiếng đồng chí Virag ra lệnh cho lái xe và càng ngày càng cảm thấy lương tâm dằn vặt.
- Virág elvtárs ... én igazán nem akartam ... én nem akartam semmi rosszat. De amaz csak szomorúan mered maga elé. - Thưa đồng chí… Tôi thật tình không chủ tâm… tôi quả là không muốn gây chuyện… Nhưng đồng chí Virag chỉ đờ đẫn nhìn trân trân ra trước mặt.
- Higgye el, én nem akartam eláztatni Bástya elvtárs előtt... - folytatja Pelikán a mentegetőzést. - Tôi thề với đồng chí là tôi không có ý định làm mất thể diện đồng chí trước mặt đồng chí Bastya… - Pelikan tiếp tục phân trần.
De Virág elvtársat nem lehet búskomorságából kizökkenteni. Hóna alól kiveszi a pisztolyát, felhúzza. Belenéz a csövébe. Thế nhưng không có gì có thể làm đồng chí Virag bỏ dở cơn ảo não của mình. Đồng chí rút khẩu súng lục đeo dưới nách ra lên đạn, rồi ghé mắt nhìn vào họng súng.
(còn tiếp) vnkatonak.com (AK_63)

0 comments:

Post a Comment