Friday, April 16, 2021

A TANÚ - NHÂN CHỨNG. Song ngữ Hung Việt. Chương III/2.

11/05/2008

Tất cả mọi khả năng gã canh đê đều tính đến, chỉ có cái sự “hoàn toàn vô tội” là không. Thậm chí không hề có con lợn nào cả chứ đừng nói đến mổ chui...

Pelikán thực sự ngỡ ngàng và cho rằng: Quả thật về mặt tư tưởng thì mình vẫn còn non kém lắm!

Thật là dễ hiểu. Tất cả chúng ta đều hiểu, chỉ có người như Pelikán là không hiểu vì sao?


- Igen - folytatja Gizi nagy okosan. - Mert ha kulák lenne apuka ... azokból most sok van. De mert párttag tetszik lenni, ő meg pártonkívüli, szóval azt mondta, hogy a szocialista jog meg minden ... Pelikán megállítja: - Mi van a szocialista joggal? Gondolkozz csak, mindent pontosan akarok tudni! - Minden a statuálástól függ, ez a lényeg - vágja ki Gizi diadalmasan. - És hogy ne tessék idegeskedni! - Vâng – Con Gizi lại tiếp tục phân tích – Giá bố là địa chủ chẳng hạn… đám này thì hiện nay tương đối đông. Nhưng bố lại là đảng viên, ông ấy là người ngoài đảng nên ông ấy bảo là luật pháp xã hội chủ nghĩa vân vân… Pelikan ngắt lời: -Luật pháp xã hội chủ nghĩa thì sao nào? Mày nhớ lại kỹ đi, tao muốn biết rõ tất cả. -Tất cả phụ thuộc vào gương hay không gương – Con Gizi tuyên bố hùng hồn - và ông ấy nhắn bố đừng lo lắng nhiều.
Az apjának hirtelen ennyi is elég, leinti: Tự nhiên Pelikan cảm thấy biết đã quá đủ. Hắn giơ tay:
- Na jól van, csókolok mindenkit, vigyázzatok magatokra. A gátra pedig ügyeljetek, nehogy valami baj történjen. Ürgén, vakondon ott legyen a szemetek! - Thôi được rồi. Chào tất cả ở ngoài. Chúng mày cẩn thận giữ gìn sức khoẻ. Nhớ xem chừng đê kẻo lại có chuyện lôi thôi. Nhớ để ý đến đám chuột đồng, chuột chũi nghe chưa.
- Különben jól van apuka? - kérdezi Gizi, és most már szipog. - À, mà bố có khoẻ không? – Con Gizi vừa hỏi vừa sụt xịt.
- Már miért ne lennék jól? - szedi össze magát Pelikán. - Na szervusz, kislányom. - Sao lại không khoẻ - Pelikan ra vẻ cứng cỏi – Nào chào con gái của bố.
Megcsókolja a rácson át a zsebkendőjébe trombitáló Gizit, és nehéz, lomha lépteivel - egy fegyőr előtte, egy fegyőr mögötte - elindul a cellája felé. Hắn thơm đứa con sụt xùi khăn mùi xoa qua lưới sắt rồi lê chân nặng như chì về khám. Đằng trước và sau hắn đều có quản giáo đi kèm.
Ott ezzel fogadja Gulyás úr: Chưa vào khám đã nghe Gulyas hỏi:
- Na, áll-e még a szocializmus, Pelikán? - Thế nào, chủ nghĩa xã hội vẫn còn tồn tại chứ anh Pelikan?
A gátőr végignéz a horthysta detektíven. Gã canh đê nhìn lão thanh tra phản động:
- Mégiscsak most verjem agyon, Gulyás úr? Pedig élhetne itt még nyolc szép évet. - Mày có muốn tao đập chết hay không đấy? Không tiếc tám năm còn được sống thêm nữa ở đây à?
Leül a priccsre, a biliárdgolyó-fejű odaül mellé, dörgölőzni kezd. Hắn ngồi xuống giường mình. Lão trọc sán đến xởi lởi:
- Magyarok vagyunk, szeressük egymást. Higgye el nekem, én egyetlen rezsimnek sem vagyok ellensége. Sőt én mindegyiknek kifejezetten híve vagyok. Ezért nem értem, miért hevertetnek itt parlagon. Magának magas barátai vannak: nem szólna egy-két jó szót az érdekemben? - Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng, anh ạ. Anh hiểu cho, tôi không thù địch với bất kỳ chế độ nào. Thậm chí tôi sẵn sàng theo bất kỳ chế độ nào. Tôi không hiểu tại sao họ bỏ phí tài năng tôi ở đây. Anh có nhiều người quen làm cao, anh nói hộ cho tôi một lời.
Pelikánból erre kitör az indulat. Föláll, fenyegető a hangja: Nghe đến đây hắn nổi cáu đứng dậy dằn giọng:
- Szálljon le rólam, Gulyás úr! - Biết điều thì để đây yên, nghe chưa?
A detektív riadtan hátrál. A gátőrhöz az ablak mellől odalép a püspök, vállára teszi a kezét: Lão thanh tra sợ sệt lùi lại. Ông giám mục từ cửa sổ bước lại đặt tay lên vai hắn:
- Feldúlt vagy, fiam! - Con hơi nóng đấy.
- Van bennem egy kis nyugtalanság - ismeri el lehiggadva Pelikán. - Đúng là tôi có chút lo lắng trong lòng - Hắn thừa nhận sau khi đã bình tĩnh lại.
- Nem akarsz magadon könnyíteni? - néz rá a püspök biztatóan. A válasz, a kérdezett két aggodalmasan széttárt karja más gondot jelez: - Con có muốn tâm hồn được thanh thản không – Ông giám mục nhìn hắn khích lệ. Nhưng hai tay hắn giang ra để trả lời lại là lo lắng khác:
- Nézze, püspök úr, most jönnek a nagy esőzések, emelkedik a vízszint. A folyó kisétálhat a medriből. Engem meg lehet, hogy közben szépen fölakasztanak. - Thưa đức cha, bây giờ đến mùa mưa nhiều, nước lên cao. Ngập lụt có thể xảy ra bất kỳ lúc nào. Trong khi đó có thể là họ đã treo cổ tôi rồi.
- Hinni kell az Úr kegyelmében, fiam ... - Con phải tin vào lòng thương của Chúa…
Pelikán legyint. Pelikan phẩy tay.
- Nézze, püspök úr... hiszek én, hiszek, ha nem is épp az Úr kegyelmében... Na mindegy... megéheztem, mi lesz ma vacsora? - Thưa đức cha, tin thì tôi có tin, mặc dù không phải vào lòng thương của Chúa…. Nhưng thôi… Lại đói rồi, hôm nay ăn gì cha?
A püspök odamegy a fűtőtesthez, fogkeféjéveljeleket kopogtat rajta. Nemsokára megjön a csöveken a válaszkopogtatás. Ông giám mục bước lại gần ống sưởi dùng bàn chải đánh răng gõ khẽ mấy tiếng. Một lúc sau có tiếng gõ lại.
- Tarhonya - mondja szárazon a püspök. - Mỳ viên – ông giám mục lơ đãng trả lời.
Pelikán letörten ingatja a fejét. Pelikan lắc đầu chán chường.
- Megint tarhonya. Legalább egy kis hagymás szaftot csinálnának hozzá! - Lại mỳ viên. Ít nhất thì cũng phải có thêm tí nước hành phi rưới chứ!
Gulyás úr úgy érzi: itt az idő, hogy közbeszóljon. Lão thanh tra thấy đã đến lúc tham gia ý kiến.
- A mi időnkben sokkal jobban főztek. - Ngày trước ăn uống hơn bây giờ nhiều.
De éppen ezzel teszi dacossá a másikat: Nhưng thế chỉ tổ làm cho kẻ kia thêm trầy:
- Maga legyen nagyon csendes, Gulyás úr. Ettem én a maguk kosztját. - Này, nếu biết xấu hổ thì câm mồm. Tao đã nhá mãi thứ ấy rồi.
Csörög a kulcs a zárban. Megjelenik a fegyőr, elkiáltja magát: Có tiếng lọc xọc trong ổ khoá. Một tay quản giáo đứng trước cửa hô:
- Pelikán József! - Pelikan Jozsef!
A szólított megadóan feláll. Hắn lừ đừ đứng dậy.
- Jelen. - Có.
- Velem jön. Szedje a cuccát is. - Ra. Mang cả nội vụ cá nhân theo.
Pelikán szedi a cuccát, a másik kettő nyugtalan részvéttel nézi. Hai người bạn tù lo lắng nhìn trong khi hắn sắp xếp đồ dùng cá nhân.
- Siralomház? - kérdi Pelikán foga közt a fegyőrt. - Sang khám tử hình à? - Hắn hỏi tay quản giáo qua kẽ răng.
Az nem felel, mereven néz maga elé. Không thấy trả lời, hắn ngồi nhìn trân trân trước mắt.
- Feloldozzalak, fiam? - kérdi segítőkész arccal a püspök. - Cha giải tội cho con nhé – Ông giám mục sốt sắng hỏi.
- Valahogy nem kívánom - mondja Pelikán, s fogja a holmiját, megy a fegyőr után. Léptei kopognak a folyosó vaspadlóján. - Tôi không muốn lắm - Hắn trả lời rồi cầm bọc hành trang đi theo người quản giáo ra ngoài. Tiếng chân họ gõ trên hành lang sắt nghe rõ mồn một.
A fogházigazgató elébe megy az iroda ajtajába. Széles, baráti kézmozdulattal üdvözli: Giám đốc trại giam chạy ra cửa đón hắn với cử chỉ rất thân thiện:
- Pelikán elvtárs, szabad vagy! - À, đồng chí Pelikan, cậu được tự do rồi!
A gátőr mindent várt, csak ezt nem. Tất cả mọi khả năng gã canh đê đều tính đến, chỉ có cái này là không.
- Szabad? - Tôi được tự do à?
- Mint a madár. - A jól táplált igazgató őszinte barátsággal rázza nneg a rab kezét. -Gratulálok. - Tự do hoàn toàn. – Ông giám đốc nhà giam đẫy đà chân thành bắt tay mừng tù nhân. - Mừng cho cậu.
Ilyen könnyen azért nem lehet őt meggyőzni. Nhưng có gì đó vẫn chưa sáng tỏ hoàn toàn.
- És a disznó? - Thế còn con lợn?
- Milyen disznó? - hökken meg az igazgató. - Lợn nào?- ông giám đốc ngạc nhiên hỏi lại.
- A Dezső. - Olyan a hangsúly, hogy érthet belőle az igazgató. Rá is vágja rögtön nyomatékkal: - Thằng Béo. - Hắn dằn giọng khiến cho ông giám đốc cũng phải hiểu. Ông lắc đầu dứt khoát:
- Nincs disznó, nem is volt disznó. Te ártatlan vagy. Minden vád elejtve. - Không có thằng lợn con lợn nào cả. Làm gì có. Cậu vô tội. Tất cả mọi án xoá hết rồi.
- Ne tessék mondani - csóválja a fejét az ártatlan. - Én azt a disznót tényleg szíven szúrtam. Ennyiből jogosan vagyok itt. - Ấy, sao lại nói thế - Kẻ vô tội lắc đầu. – Quả thực là tôi cho con lợn ấy một nhát vào giữa tim. Vì thế tôi vào đây là đáng tội.
A fogházigazgató már-már elveszti a türelmét. Ông giám đốc trại giam đã hơi bực.
- Nem vitatkozom. Szabad, és kész! Felsőbb utasítás! - Tôi không tranh cãi với anh. Anh được tha. Chấm hết! Đây là lệnh của trên!
Erre csak megadhatja magát az ember. - Értein. Illetve nem értem. De hát én ideológiailag nem vagyok elég képzett. Hát: mindent nagyon köszönök. Persze, a koszton azért lehetne javítani. -Bizalmasan odahajol a fogházigazgatóhoz. - Miért mondhassa minden szaros reakciós, hogy a demokrácia börtönében rossz az ellátás? Kint se valami jó, de ott mégis öntudatosabb az ember! Đến nước này thì hắn chịu. -Rõ! Nhưng mà tôi vẫn chưa hiểu lắm. Quả thật về mặt tư tưởng thì tôi vẫn còn non kém. Nhưng cũng rất cám ơn. Nhưng mà này, cái khoản ăn uống nên cải thiện tí. - Hắn nghé tai ông giám đốc vẻ bí mật - Đừng để cho mấy thằng phản động thối tha lải nhải là trong nhà giam chế độ ta ăn uống kém. Ở ngoài thì cũng chẳng hơn gì, nhưng được cái người ta còn có ý thức hơn.
(còn tiếp)
vnkatonak.com (AK_63)

0 comments:

Post a Comment