Friday, April 23, 2021

A TANÚ - NHÂN CHỨNG. Song ngữ Hung Việt. Chương IV.

18/05/2008

Làng quê A TANÚ kể về Pelikán Jozsef - nhân viên canh đê và những chuyện xẩy ra chung quanh hắn. Nội dung được thể hiện phần lớn bằng các đoạn đối thoại. Tuy vậy, người đọc vẫn đủ để mường tượng tới một miền quê ven sông thanh bình và thơ mộng cùng với những con người chân thật và chịu đựng.

Tiếng hát dội lại từ mặt sông Đu-na mênh mông cuồn cuộn hoà với tiếng đàn phong cầm...

Từ phía bờ sông bên kia gió đưa sang vài tiếng chuông uể oải...


FOGSZ TE MÉG EGY NAGYOT CSODÁLKOZNI!

Chương IV: RỒI CÓ NGÀY MÀY CÒN NGÃ NGỬA NGƯỜI!

Pelikán tehát újra szabad, a szabadságot pedig meg kell ünnepelni. A Duna menti halászkocsmában körülveszik a barátai. Öszszekoccannak a söröskriglik, Jóska nótáját danolásszák. Csak egy gyomorbajos vasutas jegyzi meg rosszmájúan. Pelikan vậy là lại được tự do. Thế thì cũng nên mừng chứ. Bạn bè vây quanh hắn trong quán cạnh bờ sông Đu-na ăn mừng. Tiếng vại bia cụng nhau lạch cạch lẫn tiếng bạn bè hát những bài hắn yêu thích. Chỉ có một gã nhân viên đường sắt còm nhom lên giọng hơi giễu cợt.
- Ha én csinálom ugyanezt, simán róni sóznak tíz évet. De akinek egy miniszter a barátja! - Người khác thì nhận đứt ngay mười năm tù, nhưng đây lại có bạn làm bộ trưởng cơ ạ.
- Hát igaz -jegyzi meg a gátőr szerényen. - Holnap meg is köszönöm neki. Felmegyünk Gizivel a minisztériumba. - Ờ phải đấy – tay canh đê nói giọng chân thật – Ngày mai có lẽ tôi phải lên Bộ với con Gizi để cảm ơn bác ấy.
De most felkapja a fejét. Ismerős hang énekel nekibúsultan: Bỗng hắn dừng lời vì đâu đây có giọng quen quen đang hát:
"Krasznahorka büszke vára, "Thành đứng đó dáng cao vời vợi,
ráborul az éj homálya... " Bóng tà giăng phủ kín hết rồi."
A diófa alatti asztalnál jól inegtertnett csizmás férfi ül, kiereszti a hangját. A lenit hömpölygő Duna fölött még visszhangzik is az ének, amelyet egy vak harmonikás ember kísér. Cạnh bàn dưới gốc cây dẻ một người đàn ông cao lớn đi giầy ủng da gân cổ hát. Tiếng hát của hắn ta dội lại từ mặt sông Đu-na mênh mông cuồn cuộn hoà với tiếng đàn phong cầm của một ông mù đệm theo.
Pelikán egy ideig nézi, aztán feláll, és súlyos léptekkel átmegy az éneklő férfihoz Az asztalához ül. Pelikan nhìn y một hồi lâu, sau đó hắn đứng dậy quả quyết bước tới bàn của người kia rồi ngồi xuống.
Az nem zavartatja magát, úgy zengeti baritonját, hogy még a mézszínű bor is megremeg előtte a pohárban. Nhưng gã kia không thèm để ý tới hắn mà vẫn tiếp tục hát khiến cho rượu vang vàng óng trong ly tưởng chừng như đang rung bần bật.
Két verssor között halk a kérdés: Vừa lúc y lấy hơi thì một câu hỏi khẽ chọc ngang:
- Te jelentettél fel, Csetneki? - Csetneki (Trét-ne-ki), mày tố tao hả?
A daloló csak egy megbocsátó pillantással válaszol, tovább énekel, tölt a kérdezőnek. Kẻ đang hát chỉ ném một cái nhìn rộng lượng vào người ngồi cạnh, rót rượu cho hắn rồi tiếp tục hát.
- Mert negyvennégyben te jelentettél fel, az biztos! - Chắc chắn là mày, vì năm bốn bốn tố tao cũng là mày chứ còn ai!
Erre sincs válasz. Pelikán öklével az asztalra ver. Không có ai trả lời. Pelikan đấm bàn.
- És ha egyszer én.jelentenélek fel, Csetneki? - Csetneki, nếu có ngày tao tố mày thì mày tính sao?
- Ugyan miért, paj tás? - kérdi amaz kihívó nyájassággal. - Cậu tố mình cái gì cơ chứ? - Gã kia hỏi giọng thân thiện giả dối.
- Például, hogy te kergetted ki a faluból Nyugatra a leventegyerekeket, meg hogy széles nyilaskarszalagot viseltél. - Như vụ mày bắt bọn thiếu sinh quân nộp cho Đức, rồi chuyện cái băng phát xít mày đeo rộng cả gang tay.
- Az nem volt titok, pajtás - mosolyog vissza Csetneki. - Én kisnyilas voltam. És a kisnyilasoknak meg lett bocsátva. - Những chuyện này ai cũng biết cả, chiến hữu ơi! - thằng Csetneki cười nhạt – Tao là thành viên đảng phát xít, nhưng người ta bỏ qua cho những phần tử phát xít tép riu rồi.
Igazán? - lepődik meg Pelikán. - Engem meg se kérdeztek. - Thật à? – Pelikan ngạc nhiên. – Sao không thấy ai nói gì?
- Pedig így volt. Nyugodj meg, pajtás! - Szól a vak harmonikásnak, hogy folytassa, s kiereszti a hangját. - Không thật thì bịa à. Yên tâm đi, chiến hữu ơi! – Nói xong gã ra hiệu cho ông mù tiếp tục rồi vang giọng.
"Hegyek ormán az őszi szél, "Gió xé toang núi cao lởm chởm
régmúlt dicsőségról beszél..." Gọi hùng thiêng thủa cũ xưa về"
Pelikán ráver az asztalra, a poharak táncot járnak. Az ének abbamarad. Pelikan đập bàn, mấy cái cốc nhảy lưng tưng. Gã kia im bặt.
- Én csak egyet mondok, Csetneki: eltakarodsz most innen, vagy nem állok jót magamért! - Csetneki, tao nói cho mày biết, nếu mày không biến khỏi đây thì hối không kịp đâu con ạ.
Cesetneki látja a szemében az elszántságot. Feláll, és csak ennyit mond: Thấy mắt hắn vằn máu, gã Csetneki đứng dậy nói:
- Elmegyek, pajtás, de fogsz te még egy nagyot csodálkozni. - Thì đi, có gì đâu chiến hữu. Nhưng rồi có ngày mày còn ngã ngửa người.
De Pelikán nem törődik a volt kisnyilas intelmével, és elhatározásához híven másnap felkerekedik Gizivel, hogy megköszönje Dániel Zoltán miniszternek azt a sok jót, amit érte tett. Nhưng Pelikan không thèm để ý tới lời răn của thằng phát xít, mà ngày hôm sau như dự định, hắn và con Gizi lên thăm ông bộ trưởng Daniel Zoltan để cảm ơn hảo tâm của ông.
A jó ruhája van rajta. A hóna alatt gombölykés csomag, papírban. Behajol a tudakozóiroda kis ablakán. Hắn mặc bộ quần áo bảnh nhất, dưới nách cặp một bọc giấy to ngó đầu vào phòng thường trực hỏi:
- Dániel elvtársat keresem. - Tôi muốn gặp đồng chí Daniel.
A félkezű portásra rájön a köhögés, hoszszan krákog, aztán felveszi a szemüvegét. Ông thường trực cụt tay ho sù sụ, hắng giọng một hồi xong mới đeo kính lên hỏi:
- Kit keres az elvtárs? - Đồng chí tìm ai?
- Dániel elvtársat. Tudom, hogy elfoglalt ember, de csak kezet akarok vele szorítani. - Tôi muốn gặp đồng chí Daniel. Tôi biết là đồng chí ấy rất bận, nhưng tôi cần gặp trực tiếp một tí thôi.
A portás felveszi a telefont, és belesustorog valamit. Aztán kiállít egy belépőcédulát. Ông thường trực nhấc máy thì thầm gì đó rồi ghi cho hắn cái giấy vào cửa.
- Második emelet öt. - Tầng ba phòng năm.
Felmennek Gizivel a második emelet ötbe. Ott egy kihajtott, fehér inges, biztató tekintetű fiatalember fogadja őket. Hắn cùng con Gizi đi lên phòng năm tầng ba. Một anh chàng áo trắng vẻ thân thiện đón họ.
- Milyen ügyben keresi Dániel Zoltánt? - Đồng chí tìm đồng chí Daniel có chuyện gì?
- A barátja vagyok. Még régről. Pelikán József gátőr. - Tôi là bạn cũ của đồng chí ấy. Tôi là Pelikan Jozsef, nhân viên canh đê.
- Értem. - A fiatalember biztató tekintete most fürkészővé válik. Felemeli a telefonkagylót, belemormol valamit, aztán felnéz Pelikánra. - À ra thế. – Đôi mắt thân thiện của anh ta chợt nhìn hắn soi mói. Anh ta nhấc máy nói gì vào đó rồi quay ra bảo:
- Harmadik emelet kettő. - Tầng bốn phòng hai.
Pelikán és ünneplőbe öltözött lánya följebb kocog egy emelettel. Ott egy nagy mellű, ősz asszony fogadja őket. Pelikan và con gái trong bộ cánh trang trọng lại lọc cọc lên tầng trên. Một bà ngực xồ sề, tóc hoa râm đón họ.
- Dániel elvtársat keresem. - Tôi muốn gặp đồng chí Daniel.
- Pelikán József? - kérdi a nő mosolyogva. - Anh là Pelikan Jozsef phải không? – Bà ta mỉm cười hỏi.
- Ez meg a lányom. - Vâng, còn đây là cháu gái tôi.
A nagy mellű nő barátságosan bólint. - És abban a csomagban mi van? - kérdezi a férfi hóna alatt szorongatott pakkra pillantva. Bà ta gật đầu thân thiện. Nhìn bọc giấy to cặp nách Pelikan bà ta hỏi: - Bọc gì vậy?
- Egy kacsa. - Có con vịt.
- Egy kacsa? - Vịt á?
- Egy kacsa. - Vâng, có con vịt.
A nő valamit belesustorog a telefonba. A vendégek összenéznek, várnak. A nő szívélyes. Bà ngực xồ sề thì thào gì đó vào điện thoại. Hai khách nhìn nhau đợi. Bà ta chỉ hai chiếc ghế ân cần mời:
- Tessék helyet foglalni - mutat két székre. - Mời anh với cháu ngồi.
- Nincsen bent Dániel elvtárs? - kérdi Pelikán bizalmatlanul. - Đồng chí Daniel không có ở cơ quan ạ? – Pelikan lo lắng hỏi.
A nagy mellű nő mosolyog: Bà kia mỉm cười:
- Tessék csak várakozni. - Anh và cháu cứ đợi cho.
Kisvártatva zümmög egyet a telefon, a nő a háta mögött lévő ajtóra mutat: Một lát sau chiếc điện thoại kêu cái rè. Bà ngực xồ sề chỉ vào cửa đằng sau lưng:
- Tessék befáradni. - Mời vào.
Ez a szoba már nagy, napfényes, tele van súlyos, sötét bútorokkal. Középen akvárium, aranyhalak úszkálnak benne. De a szoba üres. Gizi rögtön odasiet az akváriumhoz, az apja nem győz pisszegni, hogy viselkedjen a helyhez méltóan. Phòng này to hơn hẳn và sáng sủa. Trong phòng đầy những bàn ghế, tủ gỗ màu sẫm cỡ lớn. Giữa phòng để một bể cá trong có mấy con cá vàng bơi đi bơi lại. Ngoài ra không có gì khác. Con Gizi thoắt cái đã đứng cạnh bể cá vàng. Bố nó thì không ngớt ra hiệu cho nó phải cư xử cho phải đạo.
Várnak néhány percig, aztán mögöttük aktacsomóval a hóna alatt, belép egy szemüveges, szigorú tekintetű férfi. Họ đợi khoảng vài phút thì có một người đàn ông đeo kính cận, dáng nghiêm khắc ôm cặp bước vào.
- Kire várnak? - kérdi komoran. - Các vị đợi ai? – Ông ta hỏi giọng khô khan.
- Dániel elvtársra. - Chúng tôi đợi đồng chí Daniel.
- Nincs itt - ül le a szemüveges férfi a nagy, faragott íróasztal mögé. - Ông ấy không có ở đây. – Ông đeo kính cận ngồi xuống cạnh một cái bàn trạm trổ to.
- És mikor jön be? - kérdi óvatosan Pelikán. - Thế khi nào thì đồng chí ấy đến đây ạ? - Pelikan cẩn thận hỏi.
- Nem tudom. - Tôi không biết.
- Házon kívül van? - Đồng chí ấy không ở cơ quan ạ?
- Nem tudom - kopognak a szemüveges szavai. - Tôi không biết. – Ông mang kính cận trả lời nhát gừng.
- Külföldön van? - Hay đồng chí ấy đi nước ngoài ạ?
- Nem tudom. - A szemüveges elmélyed a magával hozott aktába. Pelikán kezdi elveszíteni a türelmét. - Tôi không biết. – Ông cận lục gì đó trong cặp. Pelikan bắt đầu khó chịu.
- Ő még itt a miniszter? - Đồng chí ấy vẫn là bộ trưởng sở tại chứ ạ?
A szemüveges most felnéz. Người đàn ông cận thị ngẩng lên.
- Nem tudom - mondja, és visszamerül az aktába, mintha abból olvasná ellentmondást nem tűrő hangon. - Maga Pelikán József, Szigetnádasd, Kreibich Nándor utcai 1. Helyrajzi szám 7649. Stimmel? - Tôi không biết – Ông ta nói và cúi xuống đám giấy tờ lấy trong cặp ra rồi đọc như tuyên án. – Anh là Pelikan Jozsef, ngụ tại Szigetnadas (xi-ghét-na-đót), nhà số 1 phố Nador (Na-đô). Số đăng ký địa chính 7649. Đúng vậy không?
Pelikán kicsit megdermed ekkora tájékozottság hallatán, de nem mutatja. Pelikan ớ người trước sự quá ư tường tận của lão cận, nhưng hắn cố gắng không để lộ ra mặt.
- Stimmel - mondja beleegyezően. - Tudniillik meg akartam köszönni Dániel elvtársnak… - Dạ đúng ạ.- Hắn trả lời - Thực ra tôi chỉ muốn đến cảm ơn đồng chí Daniel đã…
- Azt a csomagot hagyja itt - mutat a kacsára a szemüveges. - Anh để cái bọc kia lại đây – lão cận chỉ vào con vịt.
- Van itt jég? - veszi ki a szép sárga kacsát Pelikán a csomagból. - Ở đây có đá lạnh không ạ? - Hắn vừa hỏi vừa lôi con vịt vàng ươm ra khỏi bọc.
- Van. Elmehetnek. - Có. Các vị có thể về.
Pelikán és Gizi még az utcán sem tudnak szólni. Némán mennek egymás mellett. Aztán megszólal Gizi. Cả Pelikan và con Gizi ra đến ngoài phố mà vẫn không thốt ra được một lời. Cả hai lặng lẽ đi cạnh nhau. Cuối cùng con Gizi hỏi:
- Apuka érti ezt? - Bố có biết có chuyện gì không?
Pelikán tűnődve néz maga elé. Pelikan trầm ngâm nhìn ra trước mặt.
- Ezek magasabb dolgok, kislányom. Mi ezt nem értjük. De minek kell mindent megérteni? Mennél magasabban ül valaki, annál bonyolultabbak körülötte a dolgok. Ezért nem akartam én sohase magasabb polcra jutni. Ebbó1 is tanulhatsz, kislányom. - Đây là những chuyện của cấp trên con ạ, mình chưa hiểu được. Nhưng việc gì mà phải biết lắm chuyện cho khổ. Càng làm cao, thì công việc càng phức tạp. Vì thế mà tao chẳng bao giờ muốn quyền cao chức trọng cả. Những điều này mày nên kinh nghiệm lấy con ạ.
De azért nem teljesen nyugodt. Tuy vậy hắn vẫn không hoàn toàn yên tâm.
(còn tiếp) vnkatonak.com (AK_63)

0 comments:

Post a Comment