Saturday, May 1, 2021

A TANÚ - NHÂN CHỨNG. Song ngữ Hung Việt. Chương V.

09/02/2009

Thật mừng là tôi đã tìm ra một cách mới để có thể dễ dàng trình bày một tác phẩm song ngữ sao cho ít ra thì câu nào đi với câu ấy để người đọc dễ kiểm chứng. Phần nữa là không chiếm dung lượng của vnkatonak.com.

Pelikánt thì vẫn như vậy. Cuộc đời của “gã canh đê” đã sang trang mới. Bởi vì “Tình hình thế giới hiện nay đang lên mạnh”, và bởi vì cái sự tận tình với công việc một cách ngô nghê của gã rất phù hợp với một vị trí lãnh đạo nào đó...

AK-63 dịch bản này giữa lúc giải bóng đá đang cao trào. Le a kalappal... đúng như lời Mận xanh đã viết.


A NEMZETKÖZI HELYZET EGYRE FOKOZÓDIK

Chương V: TÌNH HÌNH THẾ GIỚI HIỆN NAY ĐANG LÊN MẠNH

Este. Békésen alszik a Pelikán család, Jóska élvezi a saját ágyát, teste alatt a deszkák ismerős nyikorgását, amikor megzörgetik az aj tót. Đêm. Cả nhà Pelikan đang say sưa ngủ. Hắn đang khoan khoái nằm giường riêng, nghe tiếng cọt kẹt quen thuộc khi trở mình thì có tiếng đập cửa.
Pelikán mordul egyet. Gatyában, félálomban megy ajtót nyitni. Két bőrkabátos marcona fiatalember áll az ajtóban. Pelikan thầm rủa rồi đứng dậy quần áo xốc xếch mắt nhắm mắt mở ra mở cửa. Hai thanh niên vạm vỡ choàng áo da đen trấn trước mặt hắn.
- Pelikán? - kérdi az egyik kurtán. - Pelikan hả? - một người hỏi cộc lốc.
- József- hagyja helyben a gátőr. - Mi tetszik? - Pelikan Jozsef - Hắn nhắc gã nọ. – Các anh cần gì?
- Öltözni - mondja a másik. - Velünk jön. - Mặc quần áo vào - gã kia nói. - Đi theo chúng tôi.
Pelikán elneveti magát. Pelikan cười ngao ngán.
- Kiderült, hogy mégiscsak volt disznó, mi? - Hoá ra là vẫn có lợn hả?
De a bőrkabátosok nem felelnek, állnak, mint a szobrok. Pelikán vállat von, és öltözni kezd. Közben még füstölög magában: Đám mặc áo da không trả lời, chúng đứng im như tượng. Pelikan nhún vai rồi vừa thay quần áo vừa lẩm bẩm:
- Mi a fenének kellett engem kiengedni? Épp hogy kezdtem megmelegedni odabenn. - Vừa mới quen hơi xà lim mà việc mẹ gì phải thả ra để giờ lại vào?
A bőrkabátosok komoran hallgatnak. Đám áo da vẫn lạnh lùng im lặng.
- Elbúcsúzhatok? - Cho nhau tạm biệt người thân nhé?
Erre sincs válasz. Pelikán megcsókolja alvó gyermekeit, és indul a két ember után. Không có tiếng trả lời. Hắn thơm các con đang ngủ say rồi đi theo hai khách không mời.
A ház előtt a töltésen nagy fekete autó, az ablakain függöny. A gátőr beül a két bőrkabátos közé, azok szó nélkül nagy fekete motorosszemüveget tesznek a szemére. Một chiếc ôtô đen lớn buông rèm đứng ở trên đường đê trước nhà. Gã canh đê ngồi vào giữa hai tay mặc áo da. Chúng không nói không rằng choàng lên mắt hắn một cái kính mô tô đen kịt.
Pelikán csodálkozik, de nem szól. Hatalmas iramban száguldanak, a kanyarokban hol az egyik, hol a másik ifjú vállára dől. Végre megkockáztatja a kérdést: Pelikan hơi ngạc nhiên, nhưng không nói gì. Chiếc xe phóng vùn vụt. Mỗi khi vào cua hắn hết dúi dụi vào vai tay áo da này đến vai gã nọ. Cuối cùng hắn liều hỏi:
- Hová megyünk? - Đi đâu thế các anh?
Semmi válasz. A két bőrkabátos komoran néz maga elé. Không ai trả lời. Hai gã áo da cau cau nhìn ra trước mặt.
- Felakasztanak? - Treo cổ à?
Konok hallgatás. Vẫn là sự im lặng bướng bỉnh.
Pelikánt hirtelen megmagyarázhatatlan jókedv önti el. Tự nhiên không hiểu sao, Pelikan thấy nhẹ nhõm hẳn trong người.
- Mert ha igen, mondják csak meg nyugodtan. Nem szeretem a meglepetéseket. Az embernek előbb-utóbb meg kell halnia. Maguknak is, fiúk. Ez az élet rendje. - Nếu đúng thế, thì các anh cứ nói thẳng. Tôi không thích những trò bất ngờ. Ai thì trước sau cũng chết. Các anh cũng thế. Đời là như vậy.
A két bőrkabátost ez se rendíti meg, ami már kicsit bosszantó. Nói thế mà chẳng ăn thua gì, kể thì cũng hơi bực thật.
- Már a mamájuk is néma volt maguknak? - Trong nhà các cụ cũng bị bệnh câm sao các anh?
De még ez a kérdés se csihol ki belőlük egy árva szót se. Kár erőltetni. Đến câu này mà hai gã kia vẫn chẳng mở mồm thì chịu rồi. Gặng nữa cũng chỉ mệt người.
Végre megáll a kocsi. Az utas szeméró1 leszedik a fekete szemüveget, kiszállhat. Roggyantan lépdel, körülnéz. Neonfényes garázsban vannak. Cuối cùng thì xe cũng dừng lại. Chiếc kính đen được tháo xuống. Pelikan bước thấp bước cao xuống xe rồi hắn nhìn quanh. Thì ra họ đang ở trong một nhà chứa xe sáng chói ánh điện nê-ông.
Az egyik kísérő rámutat egy vasból készült csigalépcsőre, amely felfele vezet a garázsból. Một gã áo da chỉ cho hắn chiếc cầu thang xoắn bằng sắt dẫn lên phía trên.
- Menjek fel? - kérdezi Pelikán. A bőrkabátos bólint, erre ő elköszön tóluk: - Hát isten veletek, fiúk! De aztán egy mukkot se! És elindul felfelé. - Lên trên hả? - Hắn hỏi. Gã áo da gật đầu. Hắn chào: - Thôi chào các thanh niên! Nhưng một lời cũng không được lộ nhé! Rồi hắn đi lên thang gác.
A csigalépcső után egy ócska bútorokkal teli, pókhálós folyosó következik. Pelikán szeme jobbra-balra rebben, elmegy egy téglával befalazott ajtó mellett, hangosan köhög, hogy jelezze a létezését, de sehol egy lélek. Csapóajtóhoz ér, habozik, bemenjen-e. Aztán bemegy. A csapóajtó után újabb kis fólyosórész, aztán hatalmas kétszárnyú, tölgyfa ajtó. Ovatosan kopog, semmi válasz. Sau cầu thang là đến một hành lang để đầy đồ cũ mạng nhện chăng đầy. Pelikan đảo mắt nhìn quanh rồi đi qua trước mặt một cửa ra vào đã được xây bịt kín. Hắn ho thật to như để báo sự có mặt của mình ở đây, nhưng chẳng có ma nào trả lời. Đến một cửa ngăn hắn phân vân một chút nhưng rồi cũng bước vào. Sau đó hắn đi hết một hành lang nhỏ thì thấy trước mặt hai cánh cửa to làm bằng gỗ sồi. Hắn rụt dè gõ cửa, nhưng không thấy động tĩnh gì.
Áll egy ideig, aztán benyit. Nagy díszes terem tárul elé, faburkolatos. Antik márványszobrok, a mennyezetről kristálycsillár ontja a fényt, hunyorogni kell tőle. Hắn đợi một chút rồi đẩy cửa vào. Trước mặt hắn là một căn phòng lớn tường lát gỗ trang hoàng lộng lẫy với những bức tượng cẩm thạch và đèn chùm pha lê toả ánh sáng lấp lánh làm hắn phải nheo mắt cho đỡ chói.
A teremben senki. De középen hosszú asztal, díszesen megterítve két személyre. És még valami, s ez elüt a berendezéstól: oldalt a fal mellett egyszerű vaságy, rajta szürke pokróc. Pelikán áll, és szorongva vár. Trong phòng không có ai, nhưng giữa phòng là một chiếc bàn dài bày biện đồ ăn dọn sẵn cho hai người. Ngoài ra hơi khác với các đồ đạc bày trong phòng, là một chiếc giường sắt cũ trải chăn xám cạnh tường.
Szemben vele egy földig érő, egész falat betöltő nagy kép: fiatal, köpcös elvtárs vezet egy lovasrohamot, amolyan Szent György, aki épp ledöfi sunyi ellenfelét. De a kép közepe egyben tapétaajtó is, és ez most nyílik, és egy nagyon elegáns, őszülő hajú, bajuszos férfi lép be rajta. Odasiet az ámuló Pelikánhoz, nyájas, megnyugtató mosollyal a kezét nyújtja : Pelikan đứng giữa phòng bồn chồn đợi. Trước mặt hắn là một bức bích hoạ lớn phủ kín tường từ trần nhà xuống đất tả cảnh một đồng chí thấp béo đang dẫn đầu một đội kỵ mã xung trận trông giống như cảnh thánh Gióoc đang đâm con rồng hiểm độc. Cửa ra vào được giấu kín giữa tranh bỗng mở ra, một người đàn ông tóc hoa râm, để râu mép, ăn mặc rất lịch sự bước vào. Ông ta vội vã đi đến trước mặt Pelikan với nụ cười thân mật chìa tay:
- Isten hozta, Pelikán elvtárs! - Chào đồng chí Pelikan, quí hoá quá!
- Jó estét! - mondja Pelikán bizonytalanul. - Chào đồng chí – Pelikan ngập ngừng nói.
- Nem éhes? - kérdi aggódva a kétsoros angol flanelruhába öltözött bajuszos férfi. - Mert együtt fogyaszthatnánk el az estebédet. - Đồng chí có đói không? - Người đàn ông mặc bộ đồ ăng-lê len khuy kép lịch sự lo lắng hỏi. - Nếu đói thì ta dùng bữa trưa muộn với nhau.
Pelikán nyel egyet, nem tudja, mit feleljen. Pelikan nuốt nước bọt, không biết phải trả lời thế nào
- Vacsoráztam már, de enni mindig tudok - mondja diplomatikusan. - Tôi ăn rồi, nhưng ăn thì lúc nào tôi cũng ăn được. - Hắn nói lấp lửng.
- Remek - örvendezik a bajuszos, és megüti a nagy tölgyfa asztalon álló gongot. A titkos ajtó kinyílik, fekete hajú, középkorú marcona asszony jelenik meg, katonazubbonyban van, de a szoknyáján frissen keményített fodros fehér kötény libeg. - Hay lắm - người đàn ông vui mừng gõ khẽ vào chiếc cồng để trên bàn bằng gỗ sồi. Cánh cửa bí mật lại mở, một bà trung niên tóc đen dáng chẳng phải vừa bước vào. Bà ta mặc quân phục, nhưng đeo một chiếc tạp dề trắng được là nếp cẩn thận.
Az asszony megáll, várja a parancsot. Bà ta đứng lại đợi lệnh.
- Tálalhat, Gogolák elvtársnő. - Dọn cơm được rồi đấy, nữ đồng chí Gogolak.
- Gyújtsam meg a gyertyákat is, Virág elvtárs? - Nến cũng thắp chứ ạ, thưa đồng chí Virag (Vi-rak)?
- Természetesen. - Tất nhiên rồi.
Gogolák elvtársnő meggyújtja a gyertyákat a kétkarú, ezüst gyertyatartóban. Virág elvtárs és Pelikán szótlanul nézik a lobogó, meleg, kicsi lángokat. Virág elérzékenyül: Nữ đồng chí Gogolak thắp nến cắm trên chiếc giá hai nhánh bằng bạc. Cả Pelikan lẫn đồng chí Virag đều im lặng ngắm nhìn những ngọn lửa nho nhỏ, ấm áp. Đồng chí Virag cảm động lên tiếng:
- Gyermekkori karácsonyok... ugye, Pelikán elvtárs? - Đúng là những đêm giáng sinh thủa ấu thơ, phải không đồngchí Pelikan?
Pelikán bólint, bár egyre jobban fúrja az oldalát, mi fog ebből az egészből kisülni. Pelikan gật đầu, thực ra hắn đang tò mò không biết chuyện này rồi sẽ đến đâu.
Virág elvtárs odahajol: Đồng chí Virag ghé hỏi:
- Valami aperitif, Pelikán elvtárs? - Tí khai vị chứ đồng chí?
- Hogy tetszik ezt érteni? - Đồng chí hỏi cái gì ạ?
Amaz lefordítja: Tay kia giải thích:
- Mit iszik? - Đồng chí uống gì?
- Mindent - mondja egyszerűen Pelikán. - Gì cũng uống được hết ạ. – Pelikan nói thẳng.
Virág elmosolyodik, Pelikán vállára teszi a kezét. Đồng chí Virag mỉm cười đặt tay lên vai Pelikan.
- Ha rám bízza... - Nếu đồng chí đồng ý để tôi chọn…
- Magára bízom. - Được.
Virág odamegy egy nagy, zöldre festett páncélszekrényhez, kinyitja. A páncélszekrény tele iratokkal, dossziékkal, de az egyik polcán finom italok állnak. Virág elmerülten nézi az italosüvegeket, aztán egy vodkáspalack mellett dönt, tölt belőle. Đồng chí Virag bước tới cạnh chiếc tủ sắt lớn sơn xanh mở ra. Trong tủ đựng đầy giấy tờ, sổ sách, nhưng có một ngăn chứa các loại rượu hảo hạng. Ông ta nhìn mấy chai rượu, cân nhắc và cuối cùng chọn chai vốt-ca rồi rót ra cốc.
Koccintanak, Virág elvtárs fölhajtja a vodkáját, mosolyogva lehunyja a szemét, kivár, amíg az erős nedű szétszalad a testében. Aztán helyet mutat Pelikánnak a megterített hosszú asztal egyik végén, ő maga a másik végére ül. Họ chạm cốc. Đồng chí Virag làm một hơi cạn chén, mỉm cười lim dim mắt để cho rượu giần giật chạy khắp cơ thể rồi mới chỉ tay mời Pelikan ngồi vào bàn đã dọn sẵn, còn mình thì ngồi xuống phía đối diện.
-Jó színben van, Pelikán elvtárs! - dől hátra a széken. - Trông đồng chí Pelikan khoẻ lắm. – Ông ta ngả người ra sau ghế.
- A dunai levegő... - magyarázza Pelikán a széken feszengve. - De maga is jó színben van, Virág elvtárs. Amaz szomorúan legyint. - Đấy là nhờ không khí của sông nước Đu-na đấy ạ. – Pelikan gượng gạo – Mà đồng chí Virag cũng khoẻ mạnh không kém. Đồng chí Virag phẩy tay buồn bã.
- Áh, ez az irodai munka. Elsorvasztja az embert. - Ôi giời, công việc văn phòng này chỉ làm người ta sinh ốm yếu đi.
De már jön is be Gogolák elvtársnő, hatalmas ezüsttálon ropogósra sült malaccal, megáll Virág elvtárs előtt. Az ingerülten rászól: Nhưng nữ đồng chí Gogolak đã bưng vào một chiếc khay bạc trên có một con lợn con quay vàng óng. Bà ta bước tới cạnh đồng chí Virag, nhưng đồng chí cau mày:
- A vendég elvtársnak! - Mời khách trước!
Az asszony leteszi Pelikán elé a sült malacot, tálcástól. Nữ đồng chí Gogolak tuân lệnh đặt cả lợn quay lẫn khay trước mặt Pelikan.
- Jó étvágyat! - mondja katonásan, és távozik. - Chúc đồng chí ăn ngon miệng. – bà ta nói như hô khẩu lệnh rồi bước ra ngoài.
Pelikán farkasszemet néz a barnapiros malaccal, melynek nyitott szájában sárga citrom. Iszonyatos zavarban van, időnként felpillant az asztal túlsó végén ülő Virág elvtársra, aki most nem szól, csak figyelmesen néz. Pelikan gườm gườm nhìn con lợn quay vàng ròn có quả chanh nhét trong miệng. Hắn lúng túng không biết phải làm gì, chỉ thỉnh thoảng lại lén nhìn đồng chí Virag đang ngồi ở cuối bàn đằng kia. Đồng chí không nói gì chỉ chăm chú nhìn hắn.
Pelikán kitesz egy darabot a tányérjára, de mikor egyedül hozzákezd az evéshez, az egyik kemény sült malacszelet a kése alatt megcsusszanva nagyot ugrik a tányérján. Pelikán ijedten összerezzen, aztán saját ügyetlenségét kinevetve, társat keresve átnéz Virág elvtársra. De a bajuszos feláll, otthagyja a saját terítékét, átül közvetlenül Pelikán mellé. Szinte vidáman mondja: Pelikan lấy một miếng vào đĩa của mình, nhưng khi hắn bắt đầu định cắt ăn thì miếng thịt quay ròn trượt ra khỏi đĩa. Hắn giật mình, rồi vừa cố cười sự vụng về của mình vừa quay sang nhìn đồng chí Virag như để thanh minh. Nhưng đồng chí đã đứng dậy rời chỗ sang ngồi cạnh hắn và nói:
- Nem rossz étel a malachús, ugye, Pelikán elvtárs?! -Thịt lợn quay cũng không đến nỗi tồi, phải không đồng chí Pelikan
Pelikán megdermed. Úgy érzi, a célzás nagyon is világos volt, leteszi a kést, villát, lehajtja a fejét. Pelikan sững người. Lời ám chỉ thế thì đã quá rõ. Hắn để dao dĩa xuống cúi gằm mặt.
- Én mindent bevallok, Virág elvtárs! - Thưa đồng chí Virag, tôi xin khai tất cả!
- Nyugalom - teszi a vállára a kezét Virág. De a gátőr tovább vall: - Không có chuyện gì! - Đồng chí Virag để tay lên vai Pelikan an ủi. Nhưng tay canh đê thành khẩn:
- Én feketén vágtam egy disznót. - Tôi quả là đã giết lợn lậu.
- Spongyát rá! - legyint Virág elvtárs kedélyesen. - Ne valljon be semmit. Mi úgyis tudunk mindent. - Chuyện vặt, quên đi! - Đồng chí Virag phẩy tay vui vẻ. – Không cần phải khai gì cả. Gì thì chúng tôi cũng biết hết cả rồi.
- Akkor jó - törli meg a homlokát Pelikán. - Dạ vâng. – Pelikan lau mồ hôi trán.
Virág tréfásan megsimítja a gátőr ruháját. Đồng chí Virag nửa đùa nửa thật vuốt áo gã canh đê.
- Ezt a zakót például 1938-ban varrták. Amaz némán bólint. Virág elvtárs nagy szakértelemmel kitép egy szálat a szövetból, meggyújtja a gyertyalángon, nézi. - Ví dụ như chiếc áo này may vào năm 1938. Pelikan cứng miệng gật đầu. Đồng chí Virag thành thạo rứt một sợi từ chiếc áo rồi đốt trên lửa nến.
- Angol szövet, nyolcvanszázalékos gyapjú - mondja tárgyilagosan. A vendége elámul, nagy tisztelettel nézi. - Vải Anh, pha hai mươi phần trăm. – Ông ta nói giọng lành nghề. Còn khách miệng há hốc thán phục nhìn.
- Honnan tetszik tudni? Ma már nem csinálnak ilyen szövetet. - Làm sao mà đồng chí biết? Những áo kiểu này giờ có ai may đâu.
Virág rejtélyesen mosolyog. Megmeregeti Pelikán karját. Föláll, odahajol, tovább elemzi az öltönyt: Đồng chí Virag mỉm cười bí hiểm vỗ vỗ vào tay Pelikan. Ông ta đứng dậy, cúi đầu nhìn chiếc áo phân tích tiếp:
- A válla egy kicsit túl van tömve, de a reverje jó. - Hátba vágja a tátott szájjal hallgató gátőrt, aztán visszaül mellé: - Bả vai đệm hơi cao, nhưng cổ rất khá. - Đống chí Virag phát mạnh vào lưng gã canh đê đang há hốc mồm ngạc nhiên rồi ngồi xuống cạnh hắn:
- Egyen csak, elvtársam! - Ăn đi chứ đồng chí!
- Virág elvtárs nem eszik? - kérdi Pelikán óvatosan. A válasz komor, lemondó: - Đồng chí Virag không ăn à? – Pelikan thận trọng hỏi. Câu trả lời khô khan pha chút thanh minh:
- Csak csipegetek. A gyomrom miatt. De maga egyen nyugodtan. Pelikán vállat von, és most már minden mindegy alapon tele szájjal falni kezeli a finom malacsültet. - Tôi chỉ gắp lấy lệ thôi. Dạ dày yếu rồi. Nhưng đồng chí cứ ăn tự nhiên. Pelikan nhún vai, và bây giờ hắn ăn thật sự. Mồm hắn nhồm nhoàm ngấu nghiến thịt lợn ngon lành.
Virág visszamegy a helyére, az asztal végébe, onnan nézi. Đồng chí Virag quay lại chỗ cũ của mình ở cuối bàn ngồi nhìn hắn
- Jó dolog összejönni egy régi harcossal - töri meg aztán a csendet. - Kár, hogy eddig nern találkoztunk. - Được gặp lại một chiến hữu cũ thú vị thật. - tiếng đồng chí phá vỡ im lặng. - Tiếc là chúng ta không gặp nhau sớm hơn.
- Kár - mondja Pelikán, és újabb darabot szed a tányérjára. - Thật đáng tiếc – Pelikan tiếp lời và gắp một miếng thịt rõ to vào đĩa mình.
Bejön Gogolák elvtársnő, aranyló bort tölt a kristálypoharakba, Virág felemeli a magáét, odamegy Pelikánhoz. Nữ đồng chí Gogolak bước vào rót rượu vang vàng óng vào cốc pha lê. Virag cầm cốc của mình đến bên Pelikan.
- Tudja, Pelikán elvtárs, egyszer majd kérünk magától valamit... - emeli koccintásra a poharát, és nagyon mélyen a szemébe néz. Pelikán nem éli át egészen a történelmi pillanatot, de azért felkapja a fejét. - Đồng chí biết đấy, sẽ có ngày tổ chức yêu cầu đồng chí một việc…- Virag nâng cốc và nhìn sâu vào mắt Pelikan. Không cảm thấy được ý nghĩa lịch sử của giây phút này, hắn bối rối hỏi lại:
- Mit tetszenek kérni? - kérdi zavartan. - Tổ chức có yêu cầu gì cơ ạ?
- Mindent a maga idejében... - mondja mélyértelműen Virág, és mosolyog a tömött bajusza alatt. - Mit szólna hozzá, ha egyik este betoppannék magához a családommal? - Cái gì cũng có thời có lúc…- đồng chí Virag nhấn mạnh và cười bí ẩn dưới bộ râu mép rậm rì. - Giả sử tối nào đó gia đình tôi đến thăm nhà bên ấy thì đồng chí thấy thế nào?
A gátőr elámul: Gã canh đê ngơ ngác:
- Énhozzárn? - Thăm nhà tôi ấy à?
- Barátkozzunk, ismerkedjünk. Régi jó elvtársak vagyunk mind a ketten. Na, mit szól hozzá, Pelikán elvtárs? - Ừ, ta làm quen, kết bạn hai nhà với nhau. Cả hai ta đều là những cán bộ cũ cả. Thế nào, đồng chí Pelikan?
Amaz zavartan vakarja a füle tövét. Pelikan bối rối gãi đầu.
- Csak egy a baj: én sehogy se tudnék ilyen vacsorát rittyenteni. - Nhưng mà khổ cái là nhà tôi chẳng có gì để đãi khách, đừng nói chuyện thịnh soạn như thế này.
- Nem számít - inti le élesen Virág. - Nem kell folyton zabálni. - S egészen közel hajol hozzá, mint aki nagyon fontos dolgot közöl: - Én csak egyet mondok, Pelikán elvtárs... A nemzetközi helyzet egyre fokozódik... - Không thành vấn đề - Đồng chí Virag phẩy tay dứt khoát - Việc gì mà cứ phải ăn uống suốt. – ông cúi sát vào Pelikan thì thầm quan trọng: -Tôi nói cho đồng chí biết là hiện nay tình hình thế giới đang lên mạnh…
- Fokozódik - ismétli meg Pelikán. - jó tudni. - Đang lên mạnh ạ? – Pelikan ngập ngừng hỏi lại - Ờ, cũng nên biết.
- Ezt sose szabad elfelejteni... - Điều này không bao giờ được quên, dù chỉ là một giây…
- Ezt nem is fogom... - fogadkozik Pelikán. - Không bao giờ tôi quên đâu ạ - Pelikan quả quyết nói.
Ezzel vége a vacsorának. Virág elvtárs a csigalépcső tetejéről búcsúzkodik a garázba leereszkedő Pelikántól. Bữa tiệc kết thúc. Đồng chí Virag đứng ở trên đỉnh cầu thang xoắn vẫy tay tiễn Pelikan leo xuống tầng để xe.
- Viszontlátásra! - int utána. - hamarosan találkozunk. - Tạm biệt nhé! Rồi sẽ gặp nhau.
Pelikán beül az autóba, a két két bőrkabátos oldalára. Pelikan ngồi vào xe, hai gã áo da đen ngồi hai bên.
- Megint együtt vagyunk, kuka legények? - szól rájuk Pelikán pityókás kedélyességgel. - Thế là lại ngồi với nhau rồi, phải không các chiến hữu kín mồm kín miệng? – Pelikan hỏi chọc với giọng đã ngà ngà.
De azok most is némák, mint a sír. Pelikán vállat von, lehunyja a szemét, és jóllakottan hortyogni kezd. Nhưng chúng vẫn im lặng như tờ. Pelikan khẽ nhún vai rồi từ từ nhắm mắt. Bụng no nên chẳng mấy chốc hắn đã ngáy khò khò.
A fekete autó rohan az éjszakában. Chiếc xe đen vẫn lao vun vút trong đêm.
(còn tiếp) vnkatonak.com (AK_63)

0 comments:

Post a Comment