Saturday, May 8, 2021

A TANÚ - NHÂN CHỨNG. Song ngữ Hung Việt. Chương VI.

10/02/2009

Tôi đang đọc tác phẩm “HỆ THỐNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA” của KORNAI JÁNOS do anh Quang A dịch ra tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin ấn hành. Tại phần “GIẢI PHẪU HỌC CỦA HỆ THỐNG XHCN CỔ ĐIỂN”, đoạn bàn về Uy tín đặc quyền có nói:

Điển hình tai hại của uy tín gắn với cấp cao là hiện tượng được gọi ở các nước xã hội chủ nghĩa là “sùng bái nhân cách”. Người lãnh đạo cao nhất của đất nước được coi là siêu nhân, có tài năng nhất, không bao giờ sai lầm và xuất chúng. Điển hình tiêu biểu nhất đã xuất hiện trong hệ thống xã hội chủ nghĩa cổ điển là Stalin và Mao Trạch Đông ở hai nước xã hội chủ nghĩa lớn nhất, Liên Xô và Trung Quốc (Nicolae Ceausescu ở Rumani, Fidel Castro ở Cuba, Kim II Sung ở Bắc Triều Tiên...)...

Hiện tượng tương tự, ở mức độ thấp hơn sự sùng bái cá nhân với lãnh đạo của cả nước, cũng xuất hiện với trường hợp các bí thư đảng uỷ khu hoặc bí thư đảng bộ cơ sở: hào quang phủ quanh họ, mỗi lời nói đều được coi là thông thái và không thể sai lầm...

Pelikán thì đã xếp dòng chữ „Lãnh tụ vĩ đại anh minh muôn năm!” bằng những viên sỏi trên triền đê. Và vì thế đương nhiên là sẽ được tổ chức cất nhắc vào những vị trí lãnh đạo có trọng trách...


EGYSZER MÉG KÉRNI FOGUNK MAGÁTÓL VALAMIT...

Chương VI: SẼ CÓ NGÀY TỔ CHỨC YÊU CẦU ĐỒNG CHÍ MỘT VIỆC...

Másnap korán reggel Pelikán József kimegy a Dunára, felírja a vízállást, ellenőrzi a gátakat, agyoncsap huszonegy ürgét, mert amíg ő a börtönben volt, az ürgék bizony alaposan elszaporodtak. A farkukat levágja, odaadja a gyerekeknek, a MÉH-tól kapott pénzből pedig az egész család befagylaltozik a faluban. Sáng sớm ngày hôm sau Pelikan Jozsef ra ngoài sông Đu-na ghi mực nước, kiểm tra lại đê và đập chết hơn hai chục con chuột đồng. Chả là khi hắn bị giam giữ lũ chuột đồng sinh sôi nảy nở quá nhanh. Hắn cắt đuôi tất cả rồi đưa cho bọn trẻ đem đi lĩnh tiền thưởng ở phòng thu mua. Tiền kiếm được cả nhà vào làng ăn kem.
Mire alkonyattájt hazaérnek, már ott várja őket Virág elvtárs a gátőrház előtt. Teljes turistaöltözet van rajta, turistabakancs, szürke micisapka. Tárt karokkal siet Pelikán elé, és mint régi jó barátot megöleli. Khi chiều tối cả nhà về thì đã thấy đồng chí Virag đợi trước nhà. Ông mặc một bộ đồ du lịch, đi giày dã ngoại, đội mũ cát két xám. Thấy Pelikan ông ta dang tay chạy lại chào đón như thể bạn thân cũ gặp nhau.
Aztán odaszólít két melák, felnyírt hajú fiatalembert, akik buzgón fényképeznek a ház körül. Rồi đồng chí gọi hai thanh niên dáng ngô ngê, tóc cắt cao đang mải mê chụp ảnh quanh nhà tới giới thiệu:
- A fiaim - mutatja be őket. - Szenvedélyes fotósok. - Đây là hai cháu tôi. Rất mê chụp ảnh.
Erre a gátőr is bemutatja a sok gyereket, a nyakában ülő fekete legkisebbtől egészen a barna Gizikéig. Pelikan cũng giới thiệu với khách các con mình từ thằng út tóc đen ngồi trên cổ cho đến con Gizi tóc nâu.
Virág elvtárs elismerően csapja össze a kezét: Đồng chí Virag vỗ hai tay vào nhau trầm trồ:
- Ez igen! Így fest egy régi harcos családja. - Thật đúng là một gia đình cán bộ cách mạng cũ!
Gizi zavartan pukedlizik egyet, aztán összesúg az apjával. Pelikán kínban, hápogva fordul a vendégek felé: Con Gizi ngượng ngùng nhún gối cảm ơn rồi thì thầm gì với bố nó. Pelikan bối rối quay sang khách phân trần:
- Szívesen itt tartanánk magukat vacsorára, de krumplin kívül nincsen idehaza semmi. Hacsak sült krumplit nem... - Chúng tôi rất sẵn lòng mời cả nhà ăn cơm tối, nhưng nhà chẳng có gì chỉ có khoai tây, nếu khách không chê thì…
- Zseniális! - örvendezik Virág. - De előbb sétáljunk egyet a gyerekekkel. - Tuyệt! - Đồng chí Virag thốt lên sung sướng. – Nhưng ta đi dạo với các cháu cái đã nhỉ?
Elindultnak hát setálni. A két Virág fiú közreveszi Gizikét, Virág atyai szeretettel felkapja az egyik csöppséget, Pelikán nyakában ott a legkisebb, mögöttük a többi. Thế là họ đi dạo. Hai thanh niên nhà Virag kèm hai bên con Gizi, Virag âu yếm nhấc bổng một đứa bé lên cổ mình. Trên cổ Pelikan là thằng út, còn những đứa khác đi theo sau.
Mennek a gáton, szívják az alkonyati friss levegőt, nézik a sötéten hömpölygő folyót. Họ đi trên bờ đê, hít thở không khí chiều tối trong lành, nhìn con sông cuộn sóng xám nghịt.
- Csudálatos! - áll meg Virág elvtárs :a töltésbe rakott felirat előtt. Olvassa: - „Éjen a mi nagy, bölcs vezérünk!" Micsoda fogalmazás! Ki csinálta? - Tuyệt đẹp! – Virag đứng lại trước dòng khẩu hiệu xếp bằng đá đọc to: - „Lãnh tụ vĩ đại anh minh muôn năm!” Lời văn hay quá thể! Ai làm đấy?
- Én. - A gátőr zavartan, szerényen megigazít néhány elmozdult követ. - Dạ, tôi ạ. – Tay canh đê ngượng ngùng trả lời và xếp lại vài viên đá lăn ra ngoài.
Virág megfogja a kezét. Đồng chí Virag cầm tay hắn.
- Szép. Nagyon szép. - Mélyen a szemébe néz. - Egyszer még kérünk magától valamit, Pelikán elvtárs... - Đẹp. Rất đẹp. – ông ta nhìn sâu vào mắt hắn - Đồng chí Pelikan này, sẽ có ngày tổ chức yêu cầu đồng chí một việc…
Pelikán biztatja: Pelikan hỏi lại:
- Mit tetszenek kérni? - Việc gì đấy ạ?
De a vendég csak lehunyja fehér szemhéját, és az ajkára teszi a mutatóujját. Nhưng ông khách chỉ nhắm mắt, đưa ngón tay chỏ lên môi.
- Mindent a maga idejében... - mondja sejtelmesen. - De lássuk azt a sült krumplit. Mióta említette, nem tudok másra gordolni. -Cái gì cũng có thời có lúc… - ông nói một cách bí ẩn. – Nhưng ta xem cái anh khoai tây nướng ra sao nào! Từ lúc anh nhắc đến nó, tôi chẳng có đầu óc nào nghĩ đến cái khác nữa!
Nemsokára körülülik a konyhaasztalt. Gizi kiszedi a krumplit a sütőből, fehér konyharuhába hajtja. Ínycsiklandó, remek szag árad szét a konyhában, Virág elvtárs is nagyot nyel, pedig aktív gyomorbajos. Chẳng bao lâu cả nhà đã ngồi quanh bàn. Con Gizi lấy khoai trong lò ra xếp vào tấm khăn vải trắng. Mùi thơm lừng quyến rũ toả khắp bếp làm đồng chí Virag cũng phải nuốt nước bọt mặc dù nghe nói là ông bị đau dạ dày cấp tính.
- Milyen leleményes a mi népünk - jegyzi meg, amikor az első krumplit kiveszi, széttöri, megsózza, megkóstolja. - Irigylem magát, Pelikán elvtárs! - Quần chúng nhân dân mới sáng kiến làm sao. – Ông cầm một củ khoai tây bẻ đôi rắc muối rồi nếm thử. – Tôi thật ghen tị với đồng chí đấy!
A házigazda szemérmesen lehajtja a fejét. Azért nem rossz érzés, ha dicsérik az embert. Ông chủ nhà ngượng nghịu cúi mặt. Được khen thì đúng là cũng thích.
Némán esznek, amikor Virág hirtelen megszólal: Cả nhà đang yên lặng ăn chợt đồng chí Virag cất giọng:
- Az ott a vendégszoba, ugye? - Kia là buồng khách, phải không nhỉ?
Pelikán egy kicsit csodálkozik, mert a vendég most jár nála először, de rábólint. Pelikan hơi ngạc nhiên, vì khách mới lần đầu tiên đến đây nhưng hắn cũng gật đầu.
- Igen. Az. - Dạ, vâng.
- A legutolsó vendég három hete volt benne? - kérdi Virág hanyagul, miközben újabb krumpliért nyúl. - Khách cuối cùng ở đó ba tuần trước, có phải không nhỉ? - Đồng chí Virag vừa hỏi lơ đãng vừa với tay lấy một củ khoai nữa.
- Igen - csodálkozik tovább Pelikán. - Dániel Zoli. Virág szeme összevillan a fiaiéval. - Vâng. – Pelikan thực sự ngạc nhiên. – Anh Daniel Zoli ở đó. Mắt „bố con” Virág nhìn nhau đầy ẩn ý.
- Ott feküdt benn, miután beugrott a vízbe. - Anh ta nằm ở buồng đấy sau khi nhảy xuống sông phải không?
- Inkább beleesett - mosolyodik el Pelikán. - Vacogott szegény, mint a nyárfalevél. De honnan tetszik tudni az esetet? - Nói đúng hơn thì anh ấy bị ngã xuống nước – Pelikan cười mỉm – Tội nghiệp, run như cầy sấy. Nhưng sao đồng chí lại biết chyện này ạ?
- Nem fontos - legyint Virág elvtárs, és leereszti a szemhéját. - Csak egyet jegyezzen meg magának: akár malacsültet eszik az ember, akár sült krumplit, az osztályharc egyre élesedik. - Không quan trọng - Đồng chí Virag phẩy tay và nhắm mắt lại. – Đồng chí nhớ lấy một điều: Dù có ăn thịt lợn quay hay khoai tây nướng, nhưng cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng ác liệt.
- Értem - bólogat Pelikán. - Tôi hiểu – Pelikan gật đầu.
Békésen ülnek a lámpa udvarában, és csámcsogva eszik a sült krumplit. Csak Pisti megy ki valamiért a szomszédos szobába. Họ ngồi ăn khoai nướng chóp chép yên ả cạnh nhau dưới quầng sáng của ngọn đèn trần. Chỉ có thằng Pisti đi sang phòng bên có việc gì đó.
Egyszerre hatalmas durranás rázkódtatja meg a levegőt. Bỗng có tiếng nổ vang lên.
Virág elvtárs és két fia az asztal alá vetik magukat. A két fiú csípőből tüzel. Csörömpölve esnek ki az ablaküvegek, szétlövik a befötteket a szekrény tetején, sziszegve spriccel szét a piros meggykompót, végül hogy semmiféle külső ellenségnek ne szolgáljanak célpontul, kilövik a villanykörtét is. Sötétség és csend borul a szobára. Cả nhà Virag phi thẳng xuống gậm bàn. Hai cháu nã đạn liên tục. Tiếng kính cửa sổ vỡ loảng xoảng. Mấy lọ quả ngâm đường trên nóc tủ cũng bị bắn tan tành, nước anh đào chảy đỏ lòm trên mặt tủ. Cuối cùng, để bịt mắt địch chiếc đèn trần cũng bị bắn tan. Cả bếp bỗng tối mịt và yên lặng trùm lên khắp phòng.
- Ezredes elvtárs - jelenti lihegve az egyik fiatalember -, elfogyott a lőszer. De van még nálam két kézigránát. Parancsot kérek, hogy elhajítsam. - Ne tessék még! - fordul oda könyörögve Pelikán Virághoz. Meggyújt egy gyufát. - Egy pillanat türelmet, Virág elvtárs! - Báo cáo đồng chí đại tá, đạn hết! - Một thanh niên hổn hển báo cáo – Nhưng tôi còn ba quả lựu đạn. Xin đồng chí cho phép ném. - Ấy đợi một tí! – Pelikan quay sang đồng chí Virag van vỉ. Hắn bật diêm. – Xin đồng chí Virag đợi cho một phút.
Besiet a szobába, aztán sűrű pofonokka1 terelgeti kifelé Pistit. Hắn xăm xăm vào phòng bên rồi vừa lôi thằng Pisti ra vừa bợp nó túi bụi.
- Már megint az a rohadt stanicli - szedi ki a gyerek kezéből a szétdurrant papírfoszlányokat. - Az a rohadt stanicli! Te budös kölyök! Pisti ordít, mintha nyúznák. - Pháo cả ngày mà chưa đủ hay sao - hắn moi trong tay thằng bé ra cái pháo giấy đã nổ rách. - Này thì pháo này, thằng mất dạy! Thằng Pisti kêu inh ỏi như bị lợn bị cắt tiết, tay chỉ vào hai thanh niên nhà Virag đang nằm bẹp dưới gậm bàn.
- Miért? Nekik szabad durrogtatni? -mutat rá az asztal alatt lapuló két Virág fiúra. - Thế hai chú kia tại sao lại được nổ pháo?
Visszaülnek a vacsorához, Gizi petróleumlámpát gyújt. Cả nhà lại ngồi vào bàn ăn, con Gizi thắp ngọn đèn dầu.
- Akárhogy is történt - jegyzi meg kis mosollyal a bajusza alatt Virág elvtárs -, mi nem hagytuk magunkat. - Megsimogatja a pofonoktól még mindig szepegő Pisti kobakját. - Ne sírj, kisfiam, ti már egy vidám, boldog világban fogtok élni. - Dù cho bất cứ việc gì xảy ra - đồng chí Virag cười mỉm dưới hàng râu mép rậm – chúng ta luôn sẵn sàng ăn miếng trả miếng. – Ông xoa đầu thằng Pisti vẫn còn đang xụt xịt vì ăn bợp. – Cháu ơi, đừng khóc nữa. Mai ngày các cháu sẽ sống trong xã hội mới sung sướng.
- Nyald ki a seggem! - nyújtja rá a nyelvét Pisti, erre még egy hatalmas pofont kap az apjától. - Sướng cái con c. ông đây này! - Thằng Pisti chưa nói hết thì đã nhận gọn cái tát trời giáng của bố nó.
- Nincs időm a nevelésükre - mentegetőzik Pelikán. - Már hajnalban kint vagyok a gáton, és sokszor estig nem kerülök haza. - Tôi chẳng có thời gian để nuôi dạy chúng nó – Pelikan phân trần. – Sáng tinh mơ là tôi đã ở ngoài đê rồi, và thường là tối mịt mới về.
- Éppen errő1 akartam beszélni - kap a szavába Virág. - Lehetetlen és bűnös dolog, hogy egy ilyen régi harcos még mindig a gátőrséggel bíbelődik! - Tôi đang định nói chuyện với đồng chí về vấn đề này đây – đồng chí Virag tranh thủ thời cơ. - Thật là tội lỗi và đáng xấu hổ khi để một đồng chí cán bộ cũ phải vất vả với đê điều thế này!
Pelikán most ijed meg igazán. Pelikan hoảng thật sự.
- Nagyon jó ez nekem, Virág elvtárs! - Cái này hợp với tôi lắm đồng chí ơi.
De a válasz hangsúlya megfellebbezhetetlen: Nhưng câu trả lời đanh thép không thể chối được:
- Magának másutt a helye. Komoly, felelős, vezető funkcióban. - Tổ chức cần đồng chí ở chỗ khác, trên cương vị lãnh đạo có trọng trách.
- Isten ments! - néz könyörögve Virágra Pelikán. - Én, bizony isten teljesen hülye vagyok. - Trời ơi! - Hắn nhìn đồng chí Virag năn nỉ - Đầu óc tôi quả thật nó tăm tối lắm.
De az leinti: Nhưng đồng chí Virag gạt thẳng:
- Nem nyitok vitát, Pelikán. Mihez ért? - Tôi không tranh cãi với đồng chí. Đồng chí thạo chuyên môn gì?
- Tulajdonképpen semmihez. Csak a gáthoz. Meg az ürgeöntéshez. - Utolsó adunak vágja ki: - És úgy érzem, nem vagyok elég képzett ideológiailag. - Nói thẳng ra thì tôi không thạo nghề gì cả ngoài nghề canh đê mới cả đổ chuột đồng. – Để chắc hơn, hắn liều con chủ bài cuối cùng: - Về mặt tư tưởng tôi vẫn còn non kém lắm.
Csend. Virág leereszti a szemhéját, aztán felnéz. Nagyon halkan, ünnepélyesen kérdi: Im lặng kéo dài. Đồng chí Virag nhắm mắt suy nghĩ rồi mở mắt ra nói gần như thì thào nhưng vô cùng trịnh trọng:
- Arra feleljen, szereti a mi nagy bölcs vezérünket? - Đồng chí hãy trả lời tôi là đồng chí có yêu mến lãnh tụ vĩ đại anh minh của chúng ta không?
- Már hogyne szeretném - hebegi Pelikán. - Tất nhiên là có rồi – Pelikan lắp bắp.
- Akkor nem lehet baj. - Thế thì không có vấn đề gì cả.
Ezzel lezárta az ügyet. Így került Pelikán József igazgatónak a fedett uszodába. Vấn đề đã được kết luận. Thế là Pelikan được bổ nhiệm làm quản lý trưởng bể bơi trong nhà.
(còn tiếp) vnkatonak.com (AK_63)

0 comments:

Post a Comment