Saturday, May 22, 2021

A TANÚ - NHÂN CHỨNG. Song ngữ Hung Việt. Chương VIII.

19/02/2009

Các bạn trẻ Việt nam sang Hung, vào những ngày đầu học ngoại ngữ đều đã được dẫn đi công viên vui (vidám park). Giờ mới biết tiền thân của nó là Công viên Ăng lê (Angolpark). Người giám đốc một thời và cũng là người đã đổi tên cho nó thành công viên vui chính là đồng chí Pelikán nhân vật chính của A Tanú!

Thực tế có thể là khác, thôi thì cứ cho là như vậy đi. Ngay trong ngày khai mạc, cắt băng khánh thành, Pelikán cũng đã kết thúc sự nghiệp và lại vào tù mà!

Tất cả các chi tiết của câu chuyện đều có thể là sự thật. Rất thật, theo nghĩa văn học...


A SZOCIALISTA SZELLEM VASÚTJA

Chương VIII: ĐƯỜNG SẮT KINH HOÀNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

(Cái nhà anh Bacsó này chơi chữ khó dịch quá. Tiếng Hung szellem vừa có nghĩa là (linh) hồn, hoặc tinh thần vừa có nghĩa là ma... Chưa tìm được từ nào tương tự tiếng ta AK đành dịch tạm vậy.)
Így történt, hogy Pelikán József a börtön helyett Virág elvtársnál ebédelt. De kezdjük az elején. Virág elvtárs egész a csigalépcsőig elébe jött Pelikánnak, és szomorúan nézi az előtte felfelé igyekvőt. Olyan szomorúan, hogy az is elszomorodik, és rögtön mentegetőzni kezd. Thế là anh chàng Pelikan Jozsef của chúng ta lại ăn trưa ở chỗ đồng chí Virag thay vì nhá mỳ viên trong tù. Nhưng ta cứ tà tà đi từ đầu. Đồng chí Virag ra đón Pelikan tận đầu cầu thang xoắn. Ông buồn rầu nhìn hắn đang trèo lên. Cái nhìn của đồng chí buồn đến nỗi làm hắn cũng phải tự hổ thẹn nên hắn phân bua.
- Nagyon röstellem az ügyet, Virág elvtárs, de én jó előre megmondtam, hogy ideológiailag nem vagyok elég képzett. Mert ha, teszem azt, Bástya elvtárs tábornoki ruhában úszkál abban a medencében, csak megismerem a piros stráfról. Ez esetben megóvom a spricko1ó tömegektől. Újságban, híradóban láttam én eleget. Szép daliás férfi, a kitüntetések csak úgy csillognak a mellén. De úszógatyában bent a vízben olyan furcsán hatott. Ki gondolta volna? Talán a fénytörés miatt... - Thưa đồng chí Virag, tôi hổ thẹn vì chuyện xảy ra quá, nhưng tôi đã nói trước với đồng chí là về mặt tư tưởng tôi còn non kém lắm. Nói giả sử như đồng chí Bastya cứ mặc nguyên cả bộ đồ tướng mà bơi thì chắc tôi nhận ra ngay, vì ai mà chả thấy được cái nẹp đỏ trên quần (quân phục tướng Hung có nẹp đỏ hai bên quần. AK). Trong trường hợp này thì tôi đã ngăn không cho đám quần chúng lao động vào bơi đến gần rồi. Tôi đã nhiều lần thấy đồng chí ấy trên báo chí, phim ảnh. Thực là người có dáng nguyên thủ quốc gia, huy huân chương rực rỡ đầy ngực. Nhưng khi đồng chí ấy chỉ mặc mỗi quần bơi trong bể bơi thì lại cứ là lạ thế nào ấy. Không hiểu tại sao. Có lẽ vì khúc xạ ánh sáng chăng?
- Bástya elvtárs már megbocsátott... - mondja Virág elvtárs, és gyengéden átfogva Pelikán vállát, bevezeti az ebédlőbe. -A gondnokot internáltuk, ő felel az egész incidensért. - Thôi, đồng chí Bastya đã bỏ qua rồi...- Đồng chí Virag nhẹ nhàng nói rồi trìu mến khoác vai Pelikan dẫn vào phòng ăn. - Tên gác cổng đã bị đưa đi cải tạo rồi. Chính hắn là thủ phạm gây ra vụ này.
- De hát ő nem tehet semmiról - tiltakozott Pelikán. - Én nem tudtam a vonalat. - Nhưng anh ta có tội gì đâu - Pelikan phản đối. - Chính tôi mới là người không nắm vững đường lối.
- Ugyan, Pelikán elvtárs! - vág közbe kissé ingerülten Virág. – A jegyszedő anyja egy malomtulajdonos kulák szeretője. Bevallotta. A válasz csöndes: - Thôi đi, đồng chí Pelikan! - đống chí Virag sẵng giọng cắt ngang. - Mẹ của tên này là người tình của một tên địa chủ sở hữu máy xay. Chính hắn đã thú nhận. Câu trả lời hơi lí nhí:
- Az más. -A folytatás még csöndesebb: - Én tulajdonképpen szeretnék visszamenni a gátra. - Thế thì khác. - Câu tiếp theo lại còn lí nhí hơn: - Thực tình với đồng chí là tôi muốn về công tác trên đê.
- Arról szó sem lehet! - mosolyog rejtélyesen Virág. - Arra feleljen, szereti-e a francia konyhát! - Đâu có thế được! - đồng chí Virag cười bí hiểm. - Đồng chí hãy trả lời tôi là có chuộng các món Pháp không nào?
- Én, kérem, mindent szeretek - adja fel a reményt Pelikán, és hagyja, hogy Virág lenyomja a hosszú ebédlőasztalhoz, megzendítse a gongot. A tapétaajtóban máris megjelenik Gogolák elvtársnő. Ezüsttálcáján most egy roston sült, gyönyörű balatoni süllő kunkorodik, a szájában citromszeletkével. - Ồ, tôi thì món nào cũng thích ạ. - Pelikan không còn hy vọng gì nữa đành phục tùng ngồi vào bàn ăn. Đồng chí Virag gõ vào chiếc cồng nhỏ và nữ đồng chí Gogolak lập tức xuất hiện trước khung cửa giấu kín trong bức bích hoạ. Một con cá quả rán cong với lát chanh trong miệng được bưng vào trên chiếc khay bạc.
- Jó étvágyat - teszi le a halat Pelikán elé Gogolák elvtársnő, és már távozna is a rejtett tapétaajtón, de Virág utánaszól. - Chúc đồng chí ăn ngon miệng. - Nữ đồng chí Gogolak đặt chiếc khay trước mặt hắn rồi định rời phòng qua cửa kín, nhưng đồng chí Virag gọi lại.
- Gogolák elvtársnő! Ez új szoknya magán, ha jól látom? - Nữ đồng chí Gogolak! Đây là chiếc váy mới nếu tôi không nhầm?
A hatalmas, marcona asszony vigyázzban áll az ajtóban. Người đàn bà hộ pháp, dáng chẳng phải vừa đứng nghiêm trong khung cửa.
- Új, Virág elvtárs - mondja szolgálatkészen. - Báo cáo, mới ạ. - Bà ta trả lời dõng dạc.
- Kurta - koppan Virág elvtárs ítélete. Utálkozva fordul el. - Hagyjuk a szexualitást a hanyatló Nyugat ópiumának! - Quá cộc - Lời phán xử ngắn gọn của đồng chí Virag vang lên. Đồng chí nhăn mặt hơi quay đi. - Hãy để những thứ dâm đãng làm liều thuốc phiện cho lũ tư bản giãy chết!
A marcona asszony elpirul. Aztán gyorsan elhagyja a termet. Virág nagyot sóhajt: Người đàn bà đỏ mặt vội vã rời phòng. Đồng chí Virag thở dài:
- Nehéz, nagyon nehéz. - Thật là khó, rất khó.
Aztán fáradt léptekkel odamegy Pelikánhoz, megáll mögötte. Ông nặng nề bước ra đằng sau Pelikan.
- Egyszer még kérünk magától valamit, drága elvtársam! - Đồng chí Pelikan thân mến, sẽ có ngày tổ chức yêu cầu đồng chí một việc!
- Tessék már kérni! - könyörög Pelikán. - Xin tổ chức yêu cầu ngay cho! - Pelikan nài nỉ.
- Mindent a maga idejében... - Cái gì cũng có thời có lúc...
- Nem bírom a feszültséget... - Nhưng tôi không chịu nổi căng thẳng nữa rồi...
Virág a rimánkodó hangtól még fáradtabban leroskad pokrócokkal letakart vaságyára. Nagy erőfeszítéssel szedi össze magát, nyugtatja a rémült gátőrt: Đồng chí Virag càng có vẻ mệt mỏi hơn trước lời cầu khẩn của Pelikan. Ông ngồi rũ xuống chiếc giường sắt có phủ tấm chăn sờn. Phải cố sức lắm ông mới nói được mấy lời an ủi gã canh đê:
- Nyugalom. Magát most a kulturális forradalom egyik fontos őrhelyére akarjuk állítani. Eszmeileg, politikailag kell átgyúrnia a dolgokat. - Hãy bình tĩnh, bây giờ tổ chức sẽ cử đồng chí tới một vị trí vô cùng quan trọng trên mặt trận cách mạng văn hoá. Phải xoay vần lại tất cả, cả về mặt tư tưởng lẫn chính trị.
- Éppen nekem? - riad meg Pelikán. - Sao lại tôi? - Pelikan hoảng hốt.
- Éppen magának. Maga nem könyvekból tanulta a forradalmat, hanem a Horthy-rendőrség ütéseitől! - Sao lại không! Đơn giản là đồng chí không trau dồi cách mạng qua sách vở mà bằng những đòn thù của chính quyền phản động ngày trước!
- Hát ez igaz - morogja Pelikán, és odavicsorítja a protézisét. - Ezt is nekik köszönhetem! - Dạ thế thì đúng ạ. - Pelikan lẩm bẩm trong miệng rồi nhe bộ răng giả. - Cũng vì bọn chúng mà ra nỗi này đây!
- Na látja! Ahol nem vagyunk mi, ott az ellenség. Mától fogva maga az angolpark igazgatója. - Đồng chí thấy chưa! Nơi nào chúng ta không có mặt là kẻ thù lảng vảng. Kể từ hôm nay đồng chí là giám đốc công viên Ăng-lê.
- Angolpark? - kérdezi Pelikán kétségbeesetten. Aztán furcsállva: - Miért angolpark? - Công viên Ăng-lê ạ? - Pelikan giật mình rồi ngỡ ngàng hỏi: - Sao lại công viên Ăng-lê ạ?
A kérdés fölöslegesen ingerlő lehet: Câu hỏi của hắn xem chừng không đúng chỗ.
- Ez a neve. Nem mindegy? - Tên người ta gọi thế thì có sao?
A kiszemelt igazgató azonban nem tágít: Nhưng tân giám đốc một mực khăng khăng:
- Miért angolpark? Miért nem vidámpark vagy viccpark? - Tai sao phải gọi là công viên Ăng-lê? Tại sao lại không gọi là công viên cười hay là công viên vui?
A Házigazda felujjong: Đồng chí Virag reo to:
- Ez az! - Felvillanyozva ugrik fel a vaságyról. - Torkánál ragadta rneg a kérdést! Mért angolpark? Hogy az angol imperialista világbirodalom a markába röhögjön? Egy frászt! Vidámpark! Ez kell a magyar dolgozóknak. Csak így tovább, Pelikán elvtárs! Keményen, meg nem alkudva előre a szocialista Vidám Parkért! - Chính thế! - Ông hả hê bật dậy từ chiếc giường sắt. - Thật là tóm trúng cổ vấn đề rồi! Sao lại công viên Ăng-lê? Để cho bọn phản động đế quốc Anh nó cười vào mũi à? Còn lâu nhé các con ơi! Công viên vui! Chính thế! Đây là cái cần cho quần chúng lao động của chúng ta. Đồng chí cứ phát huy tiếp đi! Tấn tới, tấn mạnh không khoan nhượng vì Công viên vui xã hội chủ nghĩa!
Pelikán még tesz egy tétova ellenállási kísérletet. Pelikan gượng thử xin xỏ.
- Énnekem van valami rossz érzésem, Virág elvtárs. Én ideológiailag... - Tôi có cảm giác là có gì vẫn không ổn, thưa đồng chí Virag. Tôi về mặt tư tưởng vẫn...
De nincs vita. Nhưng đâu có được.
- Egy szót se többet! Szereti a mi bölcs, nagy vezérünket? - Không tranh luận dài dòng! Đồng chí có yêu mến lãnh tụ anh minh vĩ đại của chúng ta không?
Pelikán bólint. Így lesz a Vidám Park igazgatója. Pelikan gật đầu. Thế là hắn trở thành giám đốc Công viên vui.
Belép új hivatalába. Tüstént munkához lát. Mindenekelőtt az „Angolpark" feliratot cserélteti ki a „Vidám Park" felirattal, amit a park dolgozói lelkes tapssal fogadnak. A céllövöldék védetlen szarvasait, bohócait egytől egyig imperialista vezetők, illetve azok bérenceinek képére cserélteti ki. Továbbá három teherautóra valót rendel Bástya elvtárs és egyéb fő-fő vezetők kicsinyített szobraiból, hogy a békahalászat, a célbadobás és egyéb versenyszerűen űzött játékok győztesei ezeket a kis szobrokat kapják majd örök emlékül. Pelikan đến chỗ làm việc mới và lập tức bắt đầu công việc. Trước hết hắn cho thay ngay tấm biển "Công viên Ăng-lê" bằng tấm biển " Công viên Vui" trước những tràng pháo tay nồng nhiệt của toàn thể nhân viên. Tất cả những hình nộm thú vật hay hề chèo làm đích ở quầy bắn súng được thay sạch bằng hình nộm của những tên trùm đế quốc và lũ tay sai. Hắn đặt hơn ba xe tải tượng nhỏ của đồng chí Bastya và các đồng chí lãnh đạo cấp cao khác để làm giải thưởng kỷ niệm suốt đời cho những người giật giải trong các trò chơi Câu cá, Ném đích vân vân và vân vân.
De az átalakított Szellemvasútra a legbüszkébb. Kidobatta a halálfejeket, csontokat és egyéb régimódi kacatokat, és helyükre Bástya elvtárs és más szeretett vezetők képmásait szereltette fel. A kiürített barlangokat sem hagyta üresen, hanem minden négyzetméternyi helyet kihasznált a szellemvasút utasainak politikai nevelésére. Saját maga válogatta ki a marxizmus klasszikusaiból azokat az idézeteket, amelyeket a vasút legegyszerűbb utasai számára is képszerűen, hatásosan meg tud jeleníteni. Ezen lényegbeli átalakítások után a Szellemvasutat a Szocialista Szellem Vasútjának keresztelte el. Trong các thay đổi thì có lẽ món "Đường sắt kinh hồn" là cái hắn tự hào nhất. Hắn cho vứt hết những đầu lâu xương xẩu và những thứ nhảm nhí đi. Thay vào đó là hình của đồng chí Bastya và các lãnh đạo kính mến khác. Tất cả các hang động mờ ảo đều được tận dụng vào mục đích tuyên huấn, giáo dục tư tưởng cho khách vào đây chơi. Hắn tự tay chọn lựa các câu trích dẫn giàu hình tượng, thiết thực từ các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác để ai cũng có thể thấm nhuần một cách dễ dàng. Sau khi đã thay đổi những nội dung cốt yếu hắn đặt lại tên từ "Đường sắt kinh hồn" thành "Đường sắt kinh hồn Xã hội chủ nghĩa".
- És mit csináljunk a halálsikolyokkal, a csontzenével meg egyebekkel? - kérdezi Rezenák, egy régi, de az új rendbe becsületesen beilleszkedő mutatványos. - Thế còn những tiếng gào rú, nhạc rùng rợn và những thứ tương tự ta làm sao? - Rezenak (Re-de-nác), một nhân viên cũ đã hoàn toàn quen với thể chế mới hỏi.
Az igazgató bölcsen mosolyog: Ngài tân giám đốc mỉm cười gật gù:
- Azok maradjanak. - Những cái đó vẫn để nguyên.
- De akkor nem fognak megijedni Bástya elvtárstól? - kérdezi kis balsejtelemmel Rezenák. - Thế nhỡ người ta thấy hình đồng chí Bastya mà khiếp thì sao? - Anh ta hỏi với sự lo lắng không giấu nổi.
- És az baj talán? - Pelikán úgy érzi, végre elkapta a dolgok végét. - Megmondta Virág elvtárs: az osztályharc egyre élesedik. Akinek pedig vaj van a fején, hadd szarjon be egy kicsit a Szocialista Szellem Vasútján. - Thì đã sao nào? - Pelikan cảm thấy mình giờ đã nắm đúng đường lối. - Đồng chí Virag đã nói: Cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng quyết liệt. Kẻ nào có vấn đề thì cứ để nó sợ vãi ra quần trong "Đường sắt kinh hồn Xã hội chủ nghĩa" càng tốt chứ sao.
Elérkezik az ünnepélyes megnyitó napja. Pattogva szól az induló, csattogtatja a szél az aktuális jelszavakat a frissen pingált transzparenseken. Lễ khánh thành trọng thể đã đến. Tiếng nhạc nhã vang lừng, gió thổi phần phật những băng khẩu hiệu vừa viết mới tinh rất thời sự.
Bástya elvtárs két hadsegéde kíséretében érkezik, átadnak neki egy hatalmas ollót, ezzel vágja el az újjávarázsolt Vidám Parkot avató nemzetiszínű szalagot. Đồng chí Bastya đến dự với hai sĩ quan trợ lý. Đồng chí nhận một chiếc kéo lớn rồi cắt băng màu cờ khánh thành Công viên Vui vừa được đổi mới hoàn toàn.
Taps mindenfelől, Bástya elvtárs mosolyog, Pelikán mosolyog, mindenki mosolyog. Tiếng vỗ tay vang dội từ mọi phía. Đồng chí Bastya mỉm cười, Pelikan cũng mỉm cười, ai ai cũng mỉm cười.
Pelikán bekalauzolja Bástya elvtársat a Szocialista Szellem Vasútjába. A tábornok az első kocsiban foglal helyet, mögötte a két hadsegéde. Egy jóval mögöttük lévő kocsiba Pelikán ül bele, fölöttébb érdekli ugyanis, hogyan halad át Bástya elvtárs ezen a helyenként borzongató, de játékosan nevelő célzatú szorakoztató létesítményen. Pelikan dẫn đồng chí vào thăm "Đường sắt kinh hồn Xã hội chủ nghĩa". Ông tướng ngự toa đầu, kế đến là hai trợ lý ở toa sau. Pelikan ngồi toa cuối để theo dõi phản ứng của đồng chí Bastya khi đi qua những ngả hầm tuy có hơi rùng rợn nhưng mang đầy tính giáo dục thông qua giải trí này.
Indul a kocsisor a kinyiló csapóajtón keresztül a barlangrendszer baljós homályába. A különböző sötét műsziklavájatokban sorra tűnnek elő győzelmünk kovácsai: mozgalmunk élő és halott klasszikusai, alattuk vad szél süvölt, bagoly huhog. Đoàn tàu khởi hành rồi đi qua một cửa lắc ngăn vào đường hầm tối âm u. Đây đó ở những động đá nhân tạo, trong tiếng gió gào thét lẫn với tiếng ma kêu quỉ hờn bất thần hiện ra những người đã làm lên chiến thắng hôm nay: các chiến sĩ ưu tú còn hoặc đã mất của phong trào.
Bástya elvtárs kicsit behúzza a nyakát, megborzong, amikor Marx Károly hatalmas képe bukkan elébe: zöld szeme villog, mögötte szívbe markoló csontzene szól. Đồng chí Bastya ớn mình hơi co người lại khi một bức chân dung Các Mác bất ngờ hiện ra trước mặt với hai con mắt sáng quắc trong tiếng nhạc rờn rợn.
A különös borzongás később csak fokozódik. Mikor a Kísértet járja be Európát című mozgó élőkép tűnik a szeme elé, és csontig hatol a kísértethuhogás, Bástya elvtárs arcán megfagy a mosoly. Egy pillanatra hátranéz, követik-e a hadsegédei, de megnyugszik: az ifjú tisztek szenvtelen arccal kocsiznak utána. Càng đi vào đồng chí càng run hơn. Khi đến cảnh minh hoạ cho câu "Bóng ma thời đại đang ám ảnh châu Âu" (Một câu trong bản Tuyên ngôn cộng sản. AK) thì đồng chí lạnh người, nhệch miệng. Đồng chí ngoái lại nhìn xem hai tay trợ lý có bám sát theo không và thở phào: Hai sĩ quan trẻ mặt lạnh như tiền vẫn ngồi ở sau lưng.
Hadsegédei emelik ki, amikor ismét a szabadba érnek a kocsik. De egy kis friss víz és némi szakszerű mesterséges légzés után Bástya elvtárs ismét a régi. Acélos lendülettel, egy nagy ember dühével rázza az öklét a leleményes igazgató felé. Hai trợ lý nhấc ông tướng ra khỏi xe khi cả đoàn đã ra ngoài đường hầm. Nhưng chỉ cần một chút không khí trong lành cùng vài động tác hô hấp nhân tạo chuyên nghiệp là đồng chí lại phong độ như cũ. Tay đấm như trời giáng vào không khí về phía ông giám đốc lắm sáng kiến, đồng chí lên cơn thịnh nộ đúng là của một nhà lãnh đạo lỗi lạc:
- Ló! Ló! Ló! - Ezt az egy szót ismétli egyre hangosabban. - Con lừa! lừa! lừa! - Đồng chí chỉ nói mỗi từ này nhưng ngày một to hơn.
Pelikán nem tudja, melyik lábára álljon. Pelikan lúng túng khốn khổ.
- Csak szóljon, Bástya elvtárs, ha valamit rosszul csináltam. Tudom, hogy még sokat kell tanulnom. - Xin đồng chí cứ chỉ giáo, nếu tôi có điều gì không phải. Tôi biết là mình còn phải học hỏi nhiều.
Bástya elvtársnál ez csak olaj a tűzre. Ráordít: Nhưng thế chỉ làm đồng chí Bastya lộn tiết thêm, ông quát hắn:
- Hogy áll?! - Đứng thế à?!
- Hogy állok? - kérdi Pelikán rémülten. - Dạ, đứng thế nào ạ? - Pelikan khiếp đảm hỏi lại.
- Vigyázz! - vezényel Bástya elvtárs. Mindenki vigyázzba merevedik. - Nghiêm!!! - Đồng chí Bastya thét. Tất cả mọi người rập gót nghiêm phắt.
- El vele! - mutat Bástya elvtárs Pelikánra. - Giải đi! - Đồng chí Bastya chỉ hắn quát.
(còn tiếp) vnkatonak.com (AK_63)

0 comments:

Post a Comment