Sunday, May 30, 2021

A TANÚ - NHÂN CHỨNG. Song ngữ Hung Việt. Chương IX.

28/02/2009

Tính đến nay Pelikán đã trải qua một quá trình tham gia cách mạng rất phong phú, đa mầu sắc. Bắt đầu là việc che dấu cán bộ cách mạng trong chiến tranh, sau đó hắn là gã canh đê mẫn cán, rồi thì được cất nhắc lên làm Giám đốc Bể bơi, Giám đốc Công viên vui, và ở chương này là Giám đốc Viện nghiên cứu nội hoá cam. Theo những gì mà câu chuyện đã kể lại, thì Pelikán hẳn là một con người đầy sáng tạo. Trong cái sự ngô nghê là lòng nhiệt tình với công việc được giao. Mặc dù hắn không hề mong muốn.

AK_63 hoàn thành được việc chuyển ngữ câu chuyện này không chỉ là do đã hiểu một cách thấu đáo ngữ nghĩa của câu từ, mà còn bởi vì đã vinh hạnh được sống trong một xã hội tương tự.

Đâu đó trong câu chuyện, làm tôi nhớ lại sự kiện một cán bộ hùng hồn phê phán cái quần bò của chủ nghĩa đế quốc. Là xấu xa, là mất tư tưởng lập trường... Nhưng khi được nhắc rằng, chính ông đang mặc nó thì ông lại cho rằng à nó vừa bền mà lại rẻ nữa! Bó tay luôn.


ELÖRE A MAGYAR NARANCSÉRT

Chương IX: TẤT CẢ VÌ CAM NỘI

Így került vissza Pelikán a börtönbe. Thế là Pelikan lại quay vào tù.
A püspök és Gulyás úr éppen dominóznak, mikor nagyon letörten belép a cellába. Leroskad a priccsre, arcán őszinte kétségbeesés. Khi hắn đau khổ bước vào khám, vị giám mục và lão cựu thanh tra đang chơi đô-mi-nô. Hắn ngồi phịch xuống giường mặt đầy nỗi hoang mang.
- Én nem tudom, mi van velem, püspök úr, de az utóbbi időben semmi sem sikerül. Pedig tele vagyok jó szándékkal. Próbálom megérteni a vonalat, de mindig mellényúlok. És ráadásul a vízállás is egyre emelkedik. - Thưa đức cha, không hiểu tại sao mà dạo này tôi chẳng làm được cái gì cho ra hồn cả. Thiện ý thì đầy, thông hiểu đường lối thì cũng muốn thông hiểu. Vậy mà toàn xôi hỏng bỏng không, đấy là chưa nói chuyện nước sông ngày càng to.
- Ne búsulj, fiam - vigasztalja a püspök. - A magyarok istene nem hagy el minket. - Đừng buồn con ạ. - ông giám mục an ủi hắn. - Thánh phù hộ người Hung không bỏ rơi ta đâu.
- Remélem is - kap valamelyest erőre Pelikán. - Mert szerintem az ötlet, mármint ez az egész új rendszer jól van kitalálva. Csak még sok a tökkelütött meg a csirkefogó. De előbb-utóbb minden a helyére rázódik. - Tôi cũng hy vọng vậy - Pelikan hồi lại chút ít. - Vì theo tôi thì cái sự nghiệp, hay nói đúng ra là cái chế độ mới này là hoàn chỉnh. Chỉ phải cái là vẫn còn nhiều kẻ ngu đần với lưu manh. Nhưng rồi trước sau thì mọi thứ cũng phải đâu vào đấy thôi.
- Például maga is -jegyzi meg Gulyás úr. - Ngay cả anh nữa - lão Gulyas nói chêm vào.
- Például én is, hiába gúnyolódik - mondja Pelikán. A dolgok kiforrják magukat. - A püspökhöz fordul: - Mi lesz ma az ebéd? - Ngay cả tao nữa, mày có chọc ghẹo cũng bằng thừa - Pelikan nói: - Tất cả mọi thứ tự sẽ đâu vào đấy hết. - Hắn quay sang ông giám mục: - Hôm nay ăn trưa gì đấy cha?
A püspök szolgálatkészen kopog a fűtőtesten. Visszakopognak. A püspök arcán széles mosoly. Ông giám mục lẹ làng gõ ống sưởi. Có tiếng gõ lại. Ông giám mục mặt rạng rỡ.
- Grenadírmars. - Khoai tây mỳ cán (Mỳ cán mỏng cắt lát trộn khoai tây đã tán dừ. AK).
Pelikánnak összefut a nyál a szájában. És amúgy is elégtételt érez. Nước bọt tràn đầy miệng Pelikan. Gì thì hắn cũng đắc chí.
- Na látják! Azért van fejlődés. - Các vị thấy chưa? Ăn uống có tiến bộ đấy chứ hả?
De hiába főzték kedvenc ételét a börtönben, délben ismét Virág elvtársnál ebédel. Nhưng trong tù người ta có nấu món hắn rất khoái cũng bằng thừa, vì đến trưa hắn lại xơi cơm ở đằng đồng chí Virag.
- Ne kísérletezzen velem többet, Virág elvtárs! - teszi össze őszinte kétségbeeséssel a kezét. - Engedjen vissza a gátra. A Duna egyre jobban árad. - Đồng chí tha cho tôi, đừng thử nghiệm tôi nữa! - Hắn thành thật chắp hai tay vào nhau cầu khẩn. - Hãy cho tôi về đê thôi. Nước sông Đu-na ngày càng lớn rồi.
Virág elvtárs nem szól, szomorú, fáradt tekintettel nézi, amint Gogolák elvtársnő az ezüsttálcáról kitálalja a szarvassültet. Aztán, hogy a marcona asszony eltűnt a tapétaajtó mögött, leereszti a szemhéját, ernyedten hátradől székében, és megszólal. Halkan, de jelentőségteljesen. Đồng chí Virag không nói gì chỉ mệt mỏi buồn bã nhìn hắn trong khi nữ đồng chí Gogolak gắp thịt nai nướng từ chiếc khay bạc cho hắn. Đợi cho bà ta biến sau cánh cửa bí mật, đồng chí từ từ nhắm mắt lại rồi ngả người trên ghế của mình và cất giọng khe khẽ nhưng vô cùng quan trọng:
- A nemzetközi helyzet egyre fokozódik. Néha bizony én is elfáradok. Én is ember vagyok, Pelikán elvtárs. - Tình hình thế giới hiện nay đang lên mạnh. Ngay cả tôi thỉnh thoảng cũng bị mệt mỏi. Tôi cũng là người, đồng chí biết đấy.
Pelikán nagy részvéttel nézi a megviselt Virágot, aki mélyen elgondolkozva ingatja a fejét. Pelikan thông cảm nhìn đồng chí Virag đang mệt mỏi. Đồng chí suy nghĩ rất lung và lắc đầu.
- Bizony, Pelikán elvtárs, sok az álmatlan éjszakánk mostanában. Sajnálni kell szegényt. - Đúng vậy, chúng ta hiện còn nhiều đêm mất ngủ. Hắn thấy thương đồng chí quá.
- Tessék sört inni lefekvés előtt, attól úgy alszik, mint a bunda. Nem aludni, az szörnyű lehet. - Đồng chí cứ uống thật nhiều bia trước khi đi ngủ khắc sẽ ngủ say như chết. Không ngủ được thì khổ lắm.
Virág szinte suttogva mondja: Đồng chí Virag gần như thì thào:
- Az ellenség itt lapul közöttünk. - Nhưng kẻ thù vẫn còn ẩn nấp đâu đây.
- Ne tessék mondani! szörnyülködik el Pelikán. - Ấy chết, thật vậy ạ? - Pelikan hoang mang.
- Most már nemsokára igazán kérünk magától valamit, Pelikán elvtárs! - Chẳng lâu nữa tổ chức sẽ thực sự yêu cầu đồng chí một việc!
- Tessék már kinyögni! - Pelikán rimánkodva néz Virág elvtársra. De az leinti. - Xin đồng chí cứ nói thẳng ra cho ạ! - Pelikan van nài nhìn đồng chí Virag, nhưng đồng chí đã giơ tay.
- Türelem. Kellő időben a kellő csapást. Addig is új őrhelyre állítjuk, Pelikán elvtárs. - Từ từ. Đánh phải đúng lúc, đúng chỗ. Nhưng giờ cho tới lúc ấy tổ chức cử đồng chí đến vị trí mới.
- Irgalom - mondja Pelikán. - Én teljesen hülye vagyok. - Xin đồng chí thương cho - Pelikan nói. - Đầu óc tôi đặc như bí.
- Menet közben kell az önbizalmat megszerezni.Szereti. . . - Lòng tự tin sẽ được khẳng định trong đấu tranh. Đồng chí có...
- A mi nagy bölcs vezérünket?! - Yêu mến lãnh tụ vĩ đại anh minh của chúng ta không ạ?!
A kétségbeesett kérdésre hidegen tárgyilagos válasz koppan: Câu hỏi hơi hoang mang của hắn nhận một câu trả lời thuần tuý tự nhiên:
- Most a narancsra gondoltam. - Không, tôi muốn nói là cam kia.
- Milyen narancsra? - Cam nào ạ?
- A narancsra általában. A narancs, az egy déligyümölcs. - Cam nói chung. Cam là một loại hoa quả xứ nóng.
- Biztos szeretem - adja meg magát Pelikán. - Tíz éve ettem utoljára. - Chắc là tôi thích - Pelikan đầu hàng - Tôi nếm lần cuối đâu mười năm trước thì phải.
Így lett Pelikán József az Első Magyar Narancsliget igazgatója. Thế là Pelikan trở thành ông viện trưởng Viện nghiên cứu nội hoá cam Hung đầu tiên.
*** ***
Új munkahelyén minden előzetes várakozással szemben derekasan megállta a helyét. Pazar klubhelyiséget építtetett a narancskutatók népes gárdájának, ezenkívül bölcsődét, óvodát, mert a narancs honi telepítői szabad idejükben nem fukarkodtak az utódok szaporításával. Trái với mọi dự kiến, tại cơ quan mới hắn hoàn thành xuất sắc mọi nhiêm vụ. Một câu lạc bộ rất hoành tráng cho đội ngũ đông đảo của các cán bộ nghiên cứu cam được xây dựng. Ngoài ra hắn còn xây nhà trẻ, mẫu giáo vì những nhà nội hoá cam sở tại không ngần ngại tăng trưởng dân số trong những lúc rỗi rãi.
A termés egyelőre nem ígérkezett nagynak. A zöldellő narancsligetben érő egyetlen narancsot viszont féltő gonddal őrizték. Naponta megnézték: gömbölyödik-e, pirosodik-e, és feszült várakozással lesték a nagy napot: a narancsszüret napját, amikor Bástya elvtárs jelenlétében megszegik az első magyar narancsot, utána pedig ünnepélyes keretek között kiosztják a Kossuth díjakat és egyéb kitüntetéseket. Trước mắt vụ mùa cũng không hứa hẹn lắm. Quả cam duy nhất trong vườn cam xanh tươi được chăm sóc giữ gìn cực kỳ cẩn thận. Hàng ngày trọng lượng, độ chín của trái cam được xác định, đánh giá cụ thể. Ai cũng hồi hộp mong chờ ngày thu hoạch. Lúc đó với sự hiện diện của đồng chí Bastya, quả cam sẽ được chính thức bổ và trong buổi lễ trọng thể giải thưởng Kossuth (giải thưởng lớn nhất của Hung dành cho khoa học và nghệ thuật. AK) và các huân huy chương khác sẽ được trao cho các đơn vị, cá nhân xuất sắc.
Az ünnepség előtti délutánon Pelikán igazgató még rövid szemlét tesz: mindeni rendben van-e a dísztribünön, jól feszül-e fölötte a büszke transzparens: „Előre a magyar narancsért!" A takarítónők még egyszer felsúrolják a szabadtéri színpadot, a narancskutatók elmennek a borbélyhoz, hogy rendbe hozassák a hajzatukat, szakállukat. Pelikán az alkonyi lebukó nap sugaraiban még egy utolsó pillantást vet a gondosan őrzött egyetlen magyar narancsra, a következő nap hősére. Buổi chiều trước ngày thu hoạch, viện trưởng Pelikan đi thị sát lần cuối. Hắn cẩn thận xem lễ đài đã khang trang chưa, khẩu hiệu đầy tự hào “Tất cả vì cam nội!” đã được căng hoành tráng ở bên trên chưa. Các bà, các cô quét dọn lau lại một lần nữa sân khấu ngoài trời, các cán bộ nghiên cứu cam ra hiệu cắt tóc cạo râu gọn gàng nghiêm chỉnh. Trong ánh hoàng hôn rực rỡ Pelikan nhìn lại một lần cuối trái cam được chăm nom tỉ mỉ, biểu tượng anh hùng của ngày hôm sau.
És elérkezik az ünnepség napja. A dísztribün zsúfolásig megtelt, az első páholyban maga Bástya elvtárs. Và ngày lễ mong đợi rồi cũng đến. Các đại biểu ngồi kín lễ đài, trên chỗ danh dự là đồng chí Bastya.
Elégedetten nézi a narancskutatók népi tánccsoportjának szívet melengető bermr tatóját. Röpülnek a színes szoknyák, elővillannak az izmos leánycombok, döngenek a piros csizmák a rögtönzött deszkákon. Đồng chí hài lòng nhìn tiết mục đặc sắc do nhóm vũ dân tộc Viện Cam trình diễn. Váy đủ màu bay phấp phới hé ra những cặp đùi thon chắc. Những chiếc giày đỏ rập theo nhịp làm rung chuyển cả sân khấu mới dựng.
Pelikán nem kis szorongással nézi a bemutatót, még utoljára a színpad mögötti díszasztalhoz oson: itt fekszik egy kristály üvegtálban az első magyar narancs egy gyönyörű, kalocsai csipketerítő alatt és mellette szépen egymás mellett a sok kitüntetés, amit majd Bástya elvtárs fog kiosztani. Pelikan ngồi nhìn màn trình diễn với vẻ lo âu không giấu nổi trên mặt. Hắn rón rén ra chiếc bàn trang trọng đằng sau sân khấu một lần cuối. Chiếc đĩa pha lê đựng trái cam Hung đầu tiên được phủ bằng một tấm khăn thêu đăng ten tuyệt đẹp. Bên cạnh đó là một hàng những huân huy chương sẽ được đồng chí Bastya trao tặng.
Pelikán végigsimítja szemével a sok plecsnit, amelyek közül egyet most ő fog megkapni, nem érdemtelenül. De ekkor különös látványra lesz figyelmes. A színpadnak támaszkodva ott játszik az ő vásott Pisti fia, frissen vasalt úttörőegyenruhában, egy falka más, ünneplőbe öltözött gyerekkel. Pisti eldugott valamit egyik tenyerébe, most előrenyújtja a két öklét, egy másik srác pedig azon töpreng, melyikbe rejtette el azt a valamit. Aztán ráver Pisti egyik öklére. Pisti kinyitja: ebben semmi. Aztán kinyitja a másikat. Mắt hắn vuốt ve đống huân chương trìu mến, trong đó hắn sẽ được nhận một chiếc hoàn toàn xứng đáng. Nhưng hắn chợt để ý thấy bên cạnh sân khấu thằng Pisti nhà hắn trong bộ quần áo thiếu niên tiền phong phẳng phiu đang chơi với đám trẻ cùng đội. Bọn trẻ đang chơi tẩm tầm vông. Thằng Pisti chìa hai tay nắm chặt ra. Thằng bạn nó chỉ và thằng Pisti xoè tay ra: không có gì cả. Rồi nó xoè nốt tay kia ra.
És uramisten, Pelikán nem hisz a szemének, mert mi van benne: három narancsmag. Thôi chết rồi! Pelikan không còn tin ở mắt mình nữa: Trong tay thằng Pisti là ba hạt cam nằm gọn.
Odaugrik a díszasztalhoz, lerántja a kalocsai díszes csipkekendőt, és a gyanúja nem csalt: a kristálytál üres. Az első magyar narancs sehol. Hắn nhảy phắt tới bên bàn giật chiếc khăn thêu ra. Nỗi nghi ngờ của hắn thoắt trở thành sự thật: trái cam Hung đầu tiên đã không cánh mà bay.
Pelikán odaugrik a fiához. Elkapja a tenyerét. Pelikan nhảy lại, chộp tay thằng con.
- Mutasd csak a tenyeredet? De hisz ez narancsmag! - Xoè tay tao xem? Hạt cam phải không?
- Az - mondja Pisti. - Không hạt cam thì hạt gì? - Thằng bé trơ tráo.
- Te megetted a narancsot?! - kérdi Pelikán kétségbeesetten. - Mày ăn mất rồi phải không?! - Pelikan hoảng hốt hỏi.
A gyerek szemtelenül a szemébe néz. Thằng bé láo lếu nhìn hắn.
- Azt hittem, a narancs arra való, hogy megegyék. - Cam để ăn chứ còn để làm gì.
Pelikán eltakarja az arcát. Pelikan lấy hai tay bưng mặt.
- Tönkretettél, te bitang! - Thằng khốn nạn, mày hại tao rồi!
És a narancsszegés pillanata egyre vészesebben közeledik. Pelikán segélyt keresve körülnéz. A dísztribün szélén meglátja Virág elvtársat. Odasettenkedik hozzá. Thời điểm bổ cam ngày càng đến gần. Pelikan nhìn quanh cầu cứu. Hắn thấy đồng chí Virag ngồi trên lễ đài liền lén đến
- Baj van - súgja elkeseredetten. - A kisfiam megette a narancsot. Virág elvtárs csak ül, szenvtelenül, mint egy fakír. Rá se pillant, benyúl a zakója belső zsebébe, és átnyújt neki egy citromot. Pelikán zavarodottan rebegi. - Gay to. - Hắn cay đắng thì thào. - Thằng con tôi nó ăn mất cam rồi. Đồng chí Virag ngồi đờ người như một tu sĩ Ấn độ. Không nhìn hắn, ông thọc tay vào túi áo móc ra một quả chanh rồi đưa cho hắn. Pelikan bối rối lắp bắp.
- Ez citrom. - Đây là chanh chứ ạ.
- Narancs - mondja Virág elvtárs fellebbezhetetlen hangsúllyal. - Cam. - Đồng chí Virag nhấn giọng dứt khoát.
- Citrom - szívóskodik tovább Pelikán. - Chanh ạ. - Pelikan chữa lại.
- Nem nyitok vitát - zárja le az ügyet Virág elvtárs. - Tôi không tranh luận với anh. - Đồng chí Virag kết thúc hội thoại.
Igy hát a Rákóczi-induló pattogó hangjai mellett a magyar politikai és kulturális élet megjelent kitűnőségei jelenlétében Pelikán igazgató a kristályüveg tálban egy citromot nyújt át Bástya elvtársnak. Thế rồi trong tiếng nhạc quân hành vang lừng và trước chứng kiến của các đại biểu ưu tú của phong trào cũng như của giới văn hoá nghệ thuật, giám đốc Pelikan trao trái chanh đựng trong đĩa pha lê cho đồng chí Bastya.
A tábornok energikus mosollyal az erre a célra készített ezüstkéssel vágja egyenlő szeletekre a déligyümölcsöt, és a jelenlevők tapsa közepette egy cikket maga is a szájához emel. Vị tướng nở nụ cười rất tươi rồi cầm con dao bạc chỉ dành cho dịp này bổ trái chanh ra mấy phần bằng nhau. Trong tiến vỗ tay vang dội của những người có mặt, ông cầm một miếng trịnh trọng đưa lên miệng.
Hirtelen elfintorodik az arca. Fegyelmezett dühvel sziszegi: Bỗng ông nhăn mặt. Nhưng ông chỉ rít qua kẽ răng:
- Ez mi? - Gì thế này?
- Narancs - feleli Pelikán, és Virág elvtársra pillant, hogy az ő helyeslő tekintetéból merítsen erőt. - Az új magyar narancs - folytatja egyre büszkébben. - Kicsit sárgább, kicsit savanyúbb, de a mienk. - Cam ạ. - Pelikan trả lời rồi liếc mắt nhìn đồng chí Virag để lấy thêm nghị lực. - Đây là cam nội chính hiệu ạ. - Hắn nói tiếp đầy vẻ tự hào. - Hơi nhợt hơn một chút, hơi chua hơn một chút, nhưng là của chúng ta.
Bástya elvtárs bólint, és férfiasan eszi tovább az első magyar narancsot. Ezek után zavartalanul kiosztják a kitüntetéseket, és egy újabb győzelem tudatával vonulnak a szabadban felállított büféasztalokhoz. Đồng chí Bastya gật gù rồi kiên cường xơi tiếp miếng cam nội đầu tiên. Sau đó là đến lễ trao phần thưởng trang trọng, rồi tất cả mọi người trong niềm vui chiến thắng mới kéo nhau ngồi vào bàn tiệc.
De ezzel mégnincs vége. Este díszelőadás a Fővárosi Operettszínházban, a magyar narancskutatók tiszteletére. Természetesen a Csárdás királynő van műsoron. Thế nhưng vẫn chưa hết. Đến tối chương trình văn nghệ chào mừng các cán bộ nghiên cứu cam được tổ chức trọng thể tại Nhà hát lớn thủ đô. Tất nhiên là vở “Nữ hoàng Vũ điệu Tra-rơ-đát” (Csárdás, một điệu nhảy Hung) được trình diễn.
Pelikán mint a liget igazgatója külön páholyt kapott, ahol meg is jelenik mind a nyolc, ünneplőbe bújt gyerekével. A szomszéd páholyban legjobb tudósai, mellükön a még csillogó kitüntetésekkel. Pelikan trên cương vị Giám đốc Viện Cam được ngồi ngăn riêng. Hắn ngồi đó với đủ cả tám đứa con quần áo lễ phục chỉnh tề. Trong các ngăn bên cạnh là các cán bộ khoa học ưu tú nhất ngực đầy huy chương vẫn còn lấp lánh.
Egyszerre zsongás a nézőtéren: kinyilik a díszpáholy ajtaja, belép először két hadsegéd, utána meg maga Bástya elvtárs, fehér blúzos, copfos süldő leánykájával. Bástya elvtárs kezében egy zacskó cukor. Abból kínálja a kislányt. Chợt có tiếng ồn áo trong đám khán giả: Cánh cửa ngăn danh dự từ từ mở. Đầu tiên là hai sĩ quan trợ lý bước vào, tiếp theo đó là đồng chí Bastya cùng con gái mặc áo trắng, tóc tết bím. Đồng chí chìa túi kẹo cầm trong tay mời con gái.
A zenekarban felzeng a „Jaj cica, eszem azt a csöpp kis szád" szívmelengető dallama. Bóni gróf incselkedik a rózsaszín tüllruhás, rózsaszín combú görlcsapattal. Mindenki el van ragadtatva, a nézőtér szinte felröpül a gyönyörűségtől. Bástya elvtárs sem titkolja kisebbfajta meghatódottságát, szelíden megsimítja leánykája haját. Dàn nhạc cử bài "Con mèo nhỏ của em ơi, cái miệng xinh xinh của anh làm em chết mất thôi" hào hứng. Trên sân khấu bá tước Boni (Bô-ni) đang đùa cợt với đám thanh nữ áo hồng, đùi cũng hồng hồng. Ai ai cũng mê hồn, cả hội trường tưởng như chao đảo trong cảm xúc tuyệt vời. Ngay cả đồng chí Bastya cũng trìu mến xoa đầu con gái không giấu nổi xúc động.
Nyilik Pelikán páholyának az ajtaja, valaki besurran, leül. Egy kéz a sötétben keményen megszorítja Pelikán kezét. A gátőr először összerezzen, de mikor meglátja Virág elvtárs biztató mosolyú arcát, megnyugszik. Cửa ngăn của Pelikan mở ra, có ai đó luồn vào ngồi cạnh hắn. Trong bóng tối một bàn tay siết chặt tay hắn. Đầu tiên hắn giật mình, nhưng khi nhìn thấy khuôn mặt rạng rỡ của đồng chí Virag thì hắn trấn tĩnh lại.
- Győztünk - súgja Virág. - Ugye, megérte? - Đại thắng! - đồng chí Virag thì thầm vào tai hắn. - Cũng đáng đấy chứ hả?
Ölébe veszi az egyik Pelikán gyereket, úgy húzódik közelebb az emberéhez. Đồng chí bế một đứa con Pelikan vào lòng rồi ngồi xích lại gần hắn.
- Látja, Pelikán, most jó ülni a babérokon! - Anh thấy chưa, bây giờ ngồi hưởng vinh dự thích nhé!
Pelikán elkomorul Pelikan nhấp nhổm.
- Azért van egy kis rossz érzés bennem -suttogja Virágnak. - Ekkora felhajtás. Mégiscsak becsaptuk az embereket. - Nhưng tôi vẫn cảm thấy thế nào ấy - hắn thì thào lại. - Việc gì mà phải làm quá to tát thế này. Gì thì ta cũng lừa người khác.
- Ugyan kit csaptunk be? - Virág lehunyja a szemét, megsimítja a bajuszát, mint mindig, amikor összegezi gondolatait. - Magunkat? Mi úgyis tudjuk, hogy miről van szó... A kutatókat? Azok örülnek, hogy plecsni van a mellükön. A széles tömegeket? Azok úgyse esznek se narancsot, se citromot, de boldogok, hogy velünk ünnepelhetnek. Az imperialistákat? Hát azoknak bizony túljártunk az eszén. Nem szeretnék most a bőrükben lenni. - Lừa ai? - Đồng chí Virag nhắm mắt lại, vuốt râu mép như mỗi khi ông sắp gọn lại các suy nghĩ trong đầu. - Lừa bản thân ta ấy à? Chúng ta biết tỏng mục đích của ta là gì rồi...Lừa các cán bộ nghiên cứu ấy à? Họ chỉ cần có gì đeo trên ngực càng nhiều càng tốt thôi. Lừa quảng đại quần chúng à? Họ có ăn cam, chanh bao giờ đâu, nhưng được vui mừng với chúng ta là họ hạnh phúc rồi. Lừa bọn đế quốc ư? Đúng là ta đã cho chúng một vố rồi. Giờ mà chúng biết thì chắc là cay cú phải biết.
Egy kis szünetet tart, megfogja Pelikán vállát. Đồng chí ngừng một lát rồi khoác vai Pelikan.
- Kiadtuk a jelszót: legyen magyar narancs! És lett magyar narancs! Mi nem ígérgetünk a levegőbe. - Chúng ta đã vạch ra mục đích nhiệm vụ là phải có cam nội! Và đã có cam nội! Chúng ta không phải là những người chỉ hứa suông.
Es ebben a pillanatban felzendül a színpadon az örökifjú Jákhy Janka éneke: Đúng vào lúc đó trên sân khấu vang lên giọng của bà Jakhy Janka (Gia-ki Giong-ko) mãi mãi trẻ trung.
„Hajmási Péter, Hajmási Pál,
a barométer esőre áll... "
Hoi-ma-si Pê-te, Hoi-ma-si Pan (tên các nhân vật trong vở ca kịch, AK) hàn thử biểu chỉ cơn mưa sắp tràn...
Ez olyan irtózatosan szép, hogy nem lehet megállni sírás nélkül. Pelikán is küzd a könnyeivel. Lời ca tuyệt diệu đến nỗi không thể không chảy nước mắt được. Pelikan cũng rưng rưng.
És mikor éjszaka ismét érte jön egy nagy fekete autó, még mindig ez muzsikál a fejében: Hajmási Péter, Hajmási Pál, a barométer esőre áll... Mãi đến nửa đêm, khi chiếc xe hòm đen đến đón, trong đầu hắn vẫn còn ngân mãi lời ca: "Hoi-ma-si Pê-te, Hoi-ma-si Pan, hàn thử biểu chỉ cơn mưa sắp tràn..."
A két szűkszavú bőrkabátos csak nézi; mit dúdolgat ez a Pelikán ilyen angyali boldogsággal. Hai gã mặc áo da kín tiếng chỉ còn biết ngây nhìn hắn không hiểu làm sao mà gã Pelikan này lại hạnh phúc mơ màng như vậy.
Így érkeznek meg Virág elvtárshoz. Và cứ như thế cả bọn đến chỗ đồng chí Virag.
(còn tiếp) vnkatonak.com (AK_63)

0 comments:

Post a Comment