Friday, June 11, 2021

A TANÚ - NHÂN CHỨNG. Song ngữ Hung Việt. Chương XI.

26/01/2010

Không có gì là không thể. Tình tiết câu chuyện trong chương đọc cứ như chuyện cười, nhưng mà có thể là thật ở cái thời mà người ta dùng lý trí để điều khiển sự việc. Kiểu như: “ở một xã hội tươi đẹp thì làm gì có gái điếm, làm gì có ăn mày...”, đấy chẳng qua là mấy người phụ nữ hư hỏng, mấy người lười lao động...

Rồi còn nhiều cái nữa. Nghe cứ như tưởng tượng, chuyện đùa... nhưng mà có thể là thật đấy.


AZ ÉLET NEM EGY HABOS TORTA

Chương XI: ĐỜI ĐÂU PHẢI LÀ CÁI BÁNH GA-TÔ

Mikor hazaér, a gyerekek már javában alszanak. Levetkőzik, aludni készül, az ágy szélére ül. De nem álmos. Tenyerére veszi a Virág elvtárstól kapott minyont, nézi, mint Hamlet* azt a bizonyos koponyát és morfondírozik. Khi Pelikan về đến nhà, bọn trẻ đã ngủ cả. Hắn thay quần áo chuẩn bị đi ngủ nhưng vẫn ngồi ở mép giường. Hắn chẳng buồn ngủ tí nào. Hắn nhìn cái bánh ngọt nhỏ đồng chí Virag cho trong lòng bàn tay y như Hăm-lét nhìn cái xương sọ thủa nào và căng óc suy nghĩ
- Az a gyanús, ami nem gyanús... ami nem gyanús, az a gyanús... Nem értem... Minden gyanús... semmi sem gyanús ... Nem megy a fejembe... nem megy a fejembe... - Cái đáng nghi là cái không khả nghi...cái không khả nghi mới là cái đáng nghi... Thế nào nhỉ?... Mọi thứ đều khả nghi... Không có gì là khả nghi...Không thể hiểu được...Mình chả hiểu cái quái gì hết...
Gizi lánya felül a díványon, csodálkozva nézi az apját. Con Gizi đang nằm trong chiếc đi-văng ngồi dậy ngạc nhiên nhìn bố.
- Mi baj, apuka? - Có gì đấy hả bố?
- Nem megy a fejembe! - Öklével a homlokára ver. - Hát ennyire hülye lennék? - Tao không hiểu nổi! - Hắn đấm tay lên trán. - Có thật là tao ngu đến mức này không?
- Ki mondta ezt, apuka? - Sao bố lại nghĩ thế?
- Merthogy Dániel mindent bevallott - mondja ki Pelikán. A lány erre megrémül. - Vì họ nói là Daniel đã thú nhận hết - Pelikan trả lời. Con Gizi bỗng hoảng hồn.
- Igazán mindent? - Chú ấy thú nhận hết à?
Apja csüggedten lehajtja a fejét. Bố nó rũ đầu xuống.
- Mindent. Benne is csalódni kellett. - Tất tật. Phụ nhau quá.
- A piszok! - tör ki hirtelen Gizi. - Pedig megígérte, hogy nem szól senkinek. Pelikán elhűlten fölnéz: - Thằng khốn! - Con Gizi bật nói. - Thế mà hắn hứa là sẽ giữ kín không cho ai biết. Pelikan mặt nhợt nhạt nhìn con:
- Szent isten! Hát te is benne voltál? - Trời đất! Mày cũng dính vào đây hay sao con?
- Így is lehet mondani - mondja Gizi pirulva, és szipogni kezd. - Minden férfi egyforma. - S az apjához búvik. - Cũng có thể nói là thế - Con Gizi đỏ mặt sụt xịt. - Thằng đàn ông nào cũng một giuộc cả. - Rồi nó nép vào bố.
Az a tenyerébe fogja a síró lány arcát. Bố nó nâng khuôn mặt đẫm nước mắt của con gái nói:
- Most már mindent valljál be apádnak! Mit csináltál te Dániellel? - Giờ mày phải thú hết cho tao! Mày làm gì với nó?
- Hát azt - feleli a lány lakonikusan. - Con ấy với hắn - Nó trả lời
- Mit? - Ấy cái gì?
- Hát mit tud egy férfi egy lánnyal csinálni? - Thì đàn ông biết làm gì ngoài cái ấy với đàn bà?
Ezt még kapiskálja az apja, de ettől csak homályosabb az egész. Ông bố ngẫm nghĩ câu trả lời của con, nhưng càng nghĩ càng thấy khó hiểu thêm.
- Mondj el szépen mindent, elejétől a végéig. Hol kerültél össze azzal az átkozottal? - Từ từ đã! Mày nói lại rành mạch từ đầu đến cuối cho tao nghe. Mày dính với thằng khốn nạn đó ở đâu?
- Itt a vendégszobában. - Ngay ở buồng khách kia.
- Mikor? - Khi nào?
- Mikor utoljára itt járt. - Khi hắn đến đây lần cuối.
- Akkor bent feküdt az ágyban! - Nhưng lúc đó nó nằm trong giường cơ mà!
- Én is bent feküdtem. - Cả con cũng nằm ở đấy.
- Fekve beszéltétek meg a dolgokat? - Chúng mày vừa nằm vừa bàn âm mưu với nhau à?
- Nem beszéltünk mi meg semmit. - Không, không bàn bạc chuyện gì cả.
- Hát mit csináltatok? - Thế chúng mày làm gì?
- Ejnye, apuka - veszti el Gizi a türelmét. - Ő vacogott a dunyha alatt, én megsajnáltam, melegítettem, dörzsölgettem. a végén hozzábújtam. Alig fejeztük be, jöttek a rendőrök. - Ôi bố ơi - Con Gizi không còn kiên nhẫn được nữa. - Hắn nằm trong chăn run lập cập, con thương mới ủ ấm, xoa bóp cho hắn rồi cuối cùng con chui vào nằm cùng cho hắn đỡ lạnh. Vừa mới xong thì mấy anh công an đến.
Pelikánnak most gyúl fény az agyában. Trong đầu Pelikan đã thấy tia sáng lờ mờ.
- Szóval csak ez volt, semmi több? - Thế nghĩa là chỉ có chuyện ấy thôi chứ không có gì khác phải không?!
Gizi felkapja a kezét, mert a pofónt várja. De az most meglepetésére elmarad. Con Gizi giơ tay lên đỡ vì tưởng bố đánh, nhưng bất ngờ thay bố nó vẫn ngồi im.
- Nem volt neked semmi gyanús ezen a Dánielen? - Mày không thấy thằng Daniel này có gì khả nghi à?
- Nekem semmi. Úgy tudtam, nőtlen. - Con không thấy có gì khả nghi cả. Như con biết hắn vẫn còn chưa vợ.
Pelikán nagyot sóhajt, legyint. Pelikan thở sượt, phảy tay.
- Persze az, hogy nem gyanús, az a leggyanúsabb... - Không thấy có gì khả nghi…Con ơi, đấy mới chính là cái nghi ngờ nhất...
Gizi nézi az apját. Sehogy se érti. Pelikánnak a minyonra téved a tekintete. Odaadja Gizinek. Con Gizi nhìn bố nó chẳng hiểu gì cả. Pelikan chợt nhìn thấy chiếc bánh ngọt. Hắn cầm lấy đưa cho con.
- Edd meg. Minyon. - Ăn đi, bánh ngọt đấy.
Gizi megeszi a minyont, és visszafekszik a díványra. Con Gizi ăn bánh rồi quay lại ghế đi-văng ngủ.
Pelikán cigarettára gyújt. Tovább topreng. Egyre kevésbé érti az egészet. Befekszik a dunyha alá, a plafont nézi. Lassan elalszik, de álmában is csak kémeket lát, akik egyáltalán nem gyanúsak. A cigaretta viszont tovább ég a szájában. Pelikan châm thuốc rồi chậm rãi suy nghĩ tiếp. Càng nghĩ hắn thấy sự việc càng khó hiểu. Hắn kéo chăn lên bụng rồi nằm nhìn trần nhà. Thế rồi hắn thiếp đi. Trong cơn mơ hắn thấy chỉ toàn gián điệp, nhưng chúng trông không khả nghi chút nào. Điếu thuốc trong lúc đó vẫn cháy trên mép hắn.
Mikor aztán kiesik a szájából, előbb a dunyha ég ki, aztán a matrac gyúl meg. Az alvó sűrű füstre ébred. Điếu thuốc rơi xuông chăn làm cái chăn bén lửa. Rồi đệm nằm cũng cháy. Pelikan choàng dậy trong khói lửa mù mịt.
Kiugrik az ágyból, riasztja a gyerekeit. Viaskodik a lángokkal, de nem sok eredménnyel. Elszalajtja Pistit a tűzoltókért. Azok nem jönnek. A ház reggelre porig ég. Hắn nhảy vội ra khỏi giường đánh thức lũ trẻ. Hắn ra sức dập lửa nhưng chẳng ăn thua gì nên vội vàng bảo thằng Pisti chạy đi báo cứu hoả.
Kora délelőtt nagy fekete autó gördül az üszkös romok mellé. Virág elvtárs ugrik ki belőle, mellette a két fia, nyakában fényképezőgéppel. Nhưng đội cứu hoả không thấy đến. Sáng ra thì cả nhà đã cháy rụi. Sáng hôm sau một chiếc xe hòm đen từ từ lăn bánh đến bên đống tro tàn. Từ trong xe đồng chí Virag nhảy ra cùng với hai con trai cổ đeo máy ảnh.
- Hallottam, mi történt - siet oda mély részvéttel a megszenesedett gerendákon kuporgó Pelikánhoz, és keményen megszorítja a kezét. - Látja, Pelikán elvtárs: az osztályharc élesedik. A ház porig égett. Ezen kár lenne vitát nyitni. De vajon véletlen-e, hogy porig égett? - Tôi nghe có chuyện xảy ra - đồng chí bước vội vã đến chia buồn với Pelikan đang ngồi trên đống than nghi ngút khói rồi xiết chặt tay hắn. - Đồng chí thấy không: cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng quyết liệt. Nhà thành than rồi, cái này khỏi tranh luận. Nhưng có phải tự nhiên cháy hay không?
Pelikán megrándul. Pelikan chau mày.
- Biztos, hogy nem véletlen - feleli Pelikán élesen. - A tűzoltók nem jöttek. - Chắc chắn không phải tự nhiên cháy - hắn bức xúc - Cứu hoả gọi nhưng biệt tăm không đến.
- Szegény barátom - fogja át a vállát Virág. - Tönkrementek az idegei. De ne felejtse el: az élet nem egy habos torta. Szedje össze magát. Csapásokat adunk, csapásokat kapunk. - Tội nghiệp - đồng chí Virag ôm vai hắn. - Thần kinh đồng chí không chịu được rồi. Nhưng không bao giờ được quên là đời đâu phải là cái bánh ga-tô. Hãy cứng cỏi lên để ăn miếng trả miếng với quân thù.
A mezőn át most érkezik szirénázva a tűzoltóautó. A tűzoltók leugranak, Csetneki, a daliás tűzoltóparancsnok, akit a Duna-parti halászcsárdában már megismertünk, sűrűn osztogatja a vezényszavakat. A tűzoltók nagy buzgalommal kezdik locsolni a megszenesedett romokat. Từ đằng xa chiếc ô tô cứu hoả rú còi tiến lại. Lính cứu hoả nhảy lục tục xuống xe. Đội trưởng cứu hoả Csetneki to cao mà ta đã có dịp làm quen ở quán bên bờ sông Đu-na luôn mồm ra lệnh. Đám lính cứu hoả hăng hái phun nước vào đống tro than nghi ngút khói.
Pelikán keserűen nézi ezt a lázas semmittevést, aztán odafordul Virághoz. Pelikan cay đắng nhìn cảnh nhộn nhạo vô nghĩa này rồi quay sang đồng chí Virag.
- Nagyon csodálkozna, Virág elvtárs, ha azt mondanám, hogy ez a tűzoltóparancsnok egy utolsó, nyilas, szabotáló briganti? - Nếu tôi bảo thằng đội trưởng đội cứu hoả này là một thằng phát xít đê tiện, một tên phản động phá hoại nguy hiểm thì đồng chí bảo sao?
A kérdezett meghökken, aztán elgondolkodik. Đồng chí Virag sững người, nhưng rồi nhanh chóng chuyển sang suy nghĩ.
- Megvizsgáljuk az ügyet - mondja komoran. - Ta sẽ kiểm tra vụ việc này - Đồng chí nghiêm nghị nói.
Odarendeli magához Csetnekit, a tűzoltóparancsnokot. Rồi đồng chí vẫy tay gọi đội trưởng đội cứu hoả Csetneki đến.
- Arra feleljen az elvtárs, hogy is volt ezzel a tűzzel - Đồng chí hãy giải thích cho tôi vụ cháy này là thế nào?
A parancsnok tiszteleg, aztán ezt mondja. Đội trưởng cứu hoả đứng nghiêm chào rồi báo cáo.
- Tisztelettel jelentem: az éberség az első. Sok bejelentés érkezik, hogy itt is tűz, van, ott is tűz van. Elébb meg kell állapítani, ki kell vizsgálni. Ehhez idő kell - fejezi be önérzetesen. - Báo cáo đồng chí, cảnh giác là trên hết ạ. Có nhiều tin báo lửa chỗ này, rồi lửa chỗ kia. Do đó cần phải kiểm tra xác định rõ ràng. Việc này tất nhiên phải cần có thời gian. - Hắn kết thúc với chút tự ái nghề nghiệp.
- Ez igaz - állapítja meg Virág. - Dolgozzon tovább. Elengedi a parancsnokot - Đúng thế - đồng chí Virag gật gù rồi ra hiệu cho gã đội trưởng - Các anh tiếp tục thi hành nhiệm vụ.
Mély részvéttel nézi Pelikánt. Đồng chí thông cảm nhìn Pelikan.
- Szegény barátom. Valóban megsínylelték az idegei. De fel a fejjel. Ez a ház fel fog épülni. Szebb lesz, mint valaha. Legfelsőbb határ az ég! Tudja, ki mondta ezt? - Tội nghiệp đồng chí. Đúng là thần kinh không chịu được rồi. Nhưng không sao. Ngôi nhà này sẽ được xây lại to đẹp hơn, đàng hoàng hơn. Với chúng ta, trời xanh là giới hạn cuối cùng. Đồng chí có biết là ai nói không?
- Sejtem - bólint fanyarul Pelikán. - Tôi cũng đoán được là ai. - Pelikan chua chát trả lời.
Virág elvtárs állta a szavát: a gátőrház újjáépítését maga vezette. Most mutatkozott csak meg igazán, milyen sokoldalú a tehetsége. Ide-oda cikázott a terep és a főváros között, intézkedett, utasított, egyszerre több készüléken telefonált. Đồng chí Virag giữ đúng lời hứa: ông tự tay đứng ra điều hành công việc xây lại nhà cho tay canh đê. Ở đây ông đã chứng tỏ năng khiếu nhiều mặt của mình. Suốt ngày hết lên thủ đô lại về hiện trường để giải quyết, chỉ dẫn công việc, điện thoại liên tục trên mấy máy cùng một lúc.
A jó munkahangulat megteremtése érdekében személyesen, saját receptje szerint főzött gulyást egy hatalmas kondérban, az építők és a sajtó megjelent képviselői számára. Để phát động không khí lao động hăng say, tự tay đồng chí nấu một chảo lớn xúp thịt bò theo bí quyết riêng của mình cho các thành viên trong đội xây dựng và giới báo chí có mặt ở công trường.
Falazóversenyt szervezett az ország legjobb kőműveseinek részvételével, akiket olyan fantasztikus módon ragadott el a vetélkedés lendülete, hogy a végén Pelikán Józsefnek kellett odakiabálni: Một cuộc thi xây tường được tổ chức với sự tham gia của những thợ nề ưu tú nhất đất nước. Họ bị không khí thi đua sôi nổi lôi cuốn tới mức mà cuối cùng Pelikan phải kêu:
- Virág elvtárs, se ajtó, se ablak! - Đồng chí Virag ơi, sao lại kín mít chẳng có cửa sổ, cửa ra vào gì thế này?
A fal viszont vidáman nyújtózott a magasba, a fent lebegő transzparensig, amelyen ez a mondat állt: Thế nhưng bức tường vẫn vươn cao kiêu hãnh dưới băng khẩu hiệu:
Legfelső határ az ég! "Trời xanh là giới hạn cuối cùng!"
(còn tiếp) vnkatonak.com (AK_63)

0 comments:

Post a Comment